Bản án về tội cố ý gây thương tích số 16/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIM BẢNG, TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 16/2023/HS-ST NGÀY 28/02/2023 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 28 tháng 02 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 08/2023/HS-ST ngày 19 tháng 01 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 08/2023/QĐXXST- HS ngày 17 tháng 02 năm 2023 đối với:

- Bị cáo: Tạ Văn S, sinh năm 1998, tại Hà Nam; nơi cư trú: Thôn T2, xã T, huyện K, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Tạ Văn Đ (Đã chết) và bà Phan Thị D; vợ, con: Chưa có; tiền sự, tiền án: Không; tạm giữ ngày 22/10/2022; áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” ngày 31/10/2022; có mặt.

- Bị hại: Anh Trịnh Văn M, sinh năm 1987; nơi cư trú: Thôn L, xã Đ, huyện K, tỉnh Hà Nam; có mặt.

- Người làm chứng: Ông Đinh Văn S, sinh năm 1969.

Bà Ngô Thị T, sinh năm 1975.

Chị Nguyễn Hải Y, sinh năm 2004.

Anh Trần Đình L, sinh năm 2003.

Chị Lò Ngọc Th, sinh năm 2004.

Chị Lò Quỳnh Nh, sinh năm 1999.

Ông Lê Văn T, sinh năm 1972.

Chị Đào Thị H, sinh năm 1988.

Cháu Trịnh Văn H, sinh năm 2007.

Người đại diện hợp pháp của cháu H: Anh Trịnh Văn M, sinh năm 1987.

Anh Trịnh Văn Th sinh năm 1985.

Ông Đinh Văn N, sinh năm 1977.

Đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 03 giờ sáng ngày 22/10/2022, tại quán ăn đêm ở thôn T1, xã T, huyện K, tỉnh Hà Nam. Tạ Văn S gặp anh Trịnh Văn M, sinh năm 1987 nơi cư trú thôn L, xã Đ, huyện K đang ngồi ăn đêm cùng anh Đinh Văn L, sinh năm 1985 và anh Trần Văn V, sinh năm 1989 đều cư trú ở xã Đ, huyện K, tỉnh Hà Nam. Sau khi làm quen với nhau, Tạ Văn S cùng ngồi uống rượu với anh M đến khoảng 4 giờ sáng cùng ngày, anh L và anh V đi về, anh M nói với S: “Hôm nay anh mời chú đi hát”, sau đó S đứng dậy trả tiền ăn đêm và chở anh M đến cây ATM ở thôn T1, xã T, huyện K để anh M rút số tiền 1.500.000 đồng đưa cho S cầm để trả tiền hát rồi cả hai đến quán Karaoke Sn của anh Đinh Văn S ở thôn T2, xã T để hát. Quá trình hát, anh M bảo S gọi nhân viên phục vụ nên S gọi điện thoại cho Trần Đình L nơi cư trú thôn M, xã N, huyện K và bảo L chở 02 nhân viên lên hát cùng. Khoảng 15 phút sau, L chở Lò Quỳnh Nh sinh năm 1999 và Lò Ngọc Th sinh năm 2004 cùng cư trú ở bản P, xã C, thành phố S và Nguyễn Hải Y sinh năm 2004 nơi cư trú thôn N, xã A, huyện B, tỉnh Hà Nam đến hát cùng. Đến khoảng 07 giờ cùng ngày, khi mọi người không hát nữa, S ra quầy làm thủ tục thanh toán thì chị Ngô Thị T là vợ anh S thông báo tiền hát hết 1.860.000 đồng, S nói với anh M: “Anh trả tiền đi” thì anh M nói: “Mày thanh toán đi”, S nói: “Anh rủ em đi chơi sao anh lại bảo em thanh toán”, anh M nói: “Tao hết tiền rồi, Đ.mẹ mày”, S không nói gì đi ra quầy thanh toán tiền lúc đó anh M đi từ trong ra đứng cạnh bên phải S, do bực tức trong người vì bị anh M chửi và phải trả tiền hát nên S giơ tay phải lên dùng cùi chỏ đánh 01 nhát trúng mặt anh M, tiếp đó dùng hai tay đấm 7-8 nhát trúng mặt anh M, anh M không phản ứng gì. S tiếp tục dùng hai tay ôm ghì đầu anh M xuống và lên gối 02 nhát trúng mặt anh M sau đó vật anh M ngã xuống nền nhà. Khi thấy anh M ngã xuống nền nhà và ngồi dậy thì S xông đến giơ chân phải đá 01 nhát từ dưới lên trên trúng vào vùng mặt anh M làm anh M ngã ngửa ra sau đập đầu xuống nền nhà lát gạch men. Lúc này anh S chủ nhà ra can ngăn, S tiếp tục giơ chân đạp thêm 01 lần nữa nhưng không trúng. Anh S đuổi S về đóng cửa, S đi về nhà, còn anh M gọi taxi đi về và được gia đình đưa đi bệnh viện điều trị đến ngày 04/11/2022 ra viện.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 USB màu đỏ đen, trên mặt có dòng chữ “ADATA” “C008/16GB”.

Kết quả khám nghiệm hiện trường: Hiện trường vụ “Cố ý gây thương tích” xảy ra ngày 22/10/2022 tại cơ sở kinh doanh karaoke S. Cơ sở kinh doanh là dạng nhà hai tầng kiên cố phía B tiếp giáp nhà chị Ngô Thị L; phía Đ giáp cánh đồng thôn T2, phía Nam giáp nhà anh Q, phía Tây giáp với đường QL21B. Phần sân phía trước được trải bê tông bằng phẳng có KT (4,5 x 8)m được dùng là chỗ để phương tiện bên trên được bưng tôn kính, mặt phía tây sân là cổng ra vào cửa cổng được làm bằng kim loại 04 cánh mở ra ngoài. Tiếp đến là khu vực quầy thanh toán có KT (6 x 3,82)m nền được lát gạch men nhẵn bóng màu trắng đen, giáp tường phía Nam của khu vực quầy thanh toán này cách tường phía Tây về Đông 0,5m có để 01 quạt cây hơi nước màu trắng KT (0,45 x 0,8x 1,35)m. Ở vị trí giáp tường phía Bắc, cách tường phía Tây về hướng Đông 0,8m để 01 chiếc ghế sô pha màu đen có KT (2,6 x 0,7 x 0,35)m. Tiếp đó cạnh vị trí ghế sô pha này về phía Đông giáp tường phía Bắc là vị trí quầy thanh toán bê ngoài được bọc lớp giả da màu đen có KT (2,75 x 1,2 x 0,7)m. Phía Tây quầy thanh toán này là cửa ra vào thông với phần sân trước cửa được làm bằng kính cường lực hai cánh mở ra ngoài có KT (1,95 x 2,14)m. Tại vị trí trên tường phía Tây cạnh mép cửa ra vào về phía Nam cách vị trí tường từ phía Nam về Bắc 0,4m cao cách mặt nền 2,3m có lắp đặt 01 camera an ninh chiếu ra khu vực quầy thanh toán. Cuối phần quầy thanh toán này về phía Đông là cầu thang đi lên tầng hai rộng 0,8m. Tiếp đến ở góc quầy Đông Nam trên tường phía Đông là cửa ra vào, cửa không cánh nối với phần bếp nấu ăn của gia đình. Bếp này nền được lát gạch men nhẵn bóng màu trắng đen có KT (3,5 x 3,8)m, phía Đông Nam gian bếp trên tường phía Đông là vị trí cửa đi nối ra khu vực sân sau. Phần sân này được trải bê tông không được bằng phẳng. Phía Bắc của sân là khu vực phòng khách và phòng hát số 2, phía Nam của sân là khu vực phòng hát số 3 và số 4. Mở rộng hiện trường xunh quanh không phát hiện được thêm các dấu vết gì khác.

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 336/22/TT ngày 31/10/2022 của Trung tâm pháp y tỉnh Hà Nam kết luận:

1. Dấu hiệu chính qua giám định: Vết rạch da trung bình vùng chẩm.

2. Căn cứ Bảng tỷ lệ...Tỷ lệ tổn thương cơ thể của Trịnh Văn M tại thời điểm giám định 02% (Hai phần trăm) tổn thương khác và di chứng khi nạn nhân điều trị ổn định ra viện đề nghị Quý cơ quan cung cấp đủ hồ sơ bệnh án điều trị và trưng cầu giám định bổ sung.

3. Chiều hướng, cơ chế hình thành vết thương: Qua nghiên cứu hồ sơ tài liệu và khám giám định, nhận định: Thương tích đang liền sẹo, không xác định chiều hướng; Chấn thương sọ não do đầu nạn nhan va đập với vật tày gây nên. Sưng nề gò má phải do vật tày tác động trục tiếp gây nên. Rách niêm mạc môi dưới do tác động với vật có cạnh gây nên.

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích (bổ sung) số 396/22/TgT ngày 22/12/2022 của Trung tâm pháp y tỉnh Hà Nam kết luận:

1. Dấu hiệu chính qua giám định:

- Chấn thương sọ não (sưng nề vùng đỉnh-chẩm, máu tụ ngoài màng cứng vùng chẩm trái do máu chảy từ vỡ xương chẩm trái), sau điều trị:

+ Máu tụ ngoài màng cứng không còn hình ảnh tổn thương trên chẩn đoán hình ảnh và khuyết xương sọ (vùng chẩm), đường kính ổ khuyết từ lớn hơn 2cm đến 6cm, đá vá: 20%.

+ Sẹo trung bình vùng chẩm - thái dương trái (sẹo mổ), không ảnh hưởng chức năng: 02%.

+ Sưng nề vùng đỉnh - chẩm, sau điều trị ổn định: không quy tỷ lệ tổn thương cơ thể.

- Sẹo nhỏ niêm mạc môi dưới, không ảnh hưởng chức năng: 01%.

- Sưng nền má phải, sau điều trị ổn định: không quy tỷ lệ tổn thương cơ thể.

2. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định 22% (Hai mươi hai phần trăm).

3. Chiều hướng, cơ chế hình thành vết thương: Qua nghiên cứu hồ sơ tài liệu và khám giám định, nhận định:

- Thương tích sau điều trị ổn đinh và liền sẹo, không xác định được chiều hướng.

- Chấn thương sọ não do đầu nạn nhân va đập mạnh với vật tày gây nên. Sưng nề má phải do vật tày tác động trực tiếp gây nên. Rách niêm mạc môi dưới do tác động với vật có cạnh gây nên.

Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra, Tạ Văn S đã tự nguyện bồi thường cho anh Trịnh Văn M số tiền 45.000.000 đồng. Anh Trịnh Văn M yêu cầu Tạ Văn S tiếp tục phải bồi thường cho anh M số tiền 153.400.000 đồng.

Cáo trạng số 14/CT-VKSKB ngày 18 tháng 01 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Bảng đã truy tố Tạ Văn S về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Tạ Văn S phạm tội “Cố ý gây thương tích”. Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Tạ Văn S từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù, tính từ ngày bắt đi thi hành án, được trừ thời gian đã tạm giữ. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ các Điều 584; Điều 585; Điều 586 và Điều 590 Bộ luật dân sự: Ghi nhận sự thỏa thuận của bị cáo và bị hại. Bị cáo Tạ Văn S tiếp tục bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho anh M số tiền 10.000.000 đồng. Bị cáo nhất trí với cáo trạng, luận tội của Viện kiểm sát và xin giảm nhẹ hình phạt. Bị hại đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng án treo. Không ai tranh luận gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Kim Bảng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Bảng, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều phù hợp.

[2] Về tội danh: Tại phiên tòa và quá trình điều tra, bị cáo Tạ Văn S thành khẩn khai báo. Lời khai nhận tội phù hợp với kết luận giám định pháp y, lời khai của bị hại, người làm chứng về thời gian, địa điểm cùng toàn bộ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được đưa ra xem xét tại phiên tòa. Tòa án có đủ căn cứ kết luận: Do bực tức khi phải thanh toán tiền hát và bị anh Trịnh Văn M chửi nên khoảng 04 giờ 30 phút ngày 22/10/2022, tại quán karaoke S ở thôn T2, xã T, huyện K, tỉnh Hà Nam, Tạ Văn S, sinh năm 1998 ở thôn T2, xã T, huyện K, tỉnh Hà Nam dùng cùi chỏ đánh 01 nhát, dùng hai tay đấm 07-08 nhát, dùng chân lên gối 02 nhát trúng vào mặt anh M, dùng chân phải đá 01 nhát hướng từ dưới lên trên trúng vào mặt anh M làm anh M ngã ngửa ra sau đập đầu xuống nền nhà lát gạch men. Hậu quả làm anh M bị tổn hại 22% sức khỏe. Hành vi đó của Tạ Văn S đã phạm tội “Cố ý gây thương tích”. Tội phạm và hình phạt quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự như cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam đã truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội xâm phạm sức khỏe của anh M. Hành vi dùng cùi chỏ tay, dùng chân lên gối, đá vào mặt anh M dẫn đến anh M ngã đập đầu xuống nền gạch men là thể hiện tính côn đồ của bị cáo. Hành vi của bị cáo đã làm ảnh hưởng xấu đến trật tự, an toàn xã hội. Do đó hành vi phạm tội của bị cáo phải được xử nghiêm minh, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục bị cáo trở thành người công dân có ích cho gia đình, xã hội, luôn có ý thức chấp hành chính sách pháp luật đồng thời giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.

[4] Về nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự: Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt.

Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo, tự nguyện bồi thường thiệt hại cho bị hại. Tại phiên tòa bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đó là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu.

[5] Về hình phạt:

Hình phạt chính: Từ những phân tích trên, Tòa án cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự để ra mức hình phạt nghiêm minh như đề nghị mức xử phạt của Viện Kiểm sát là phù hợp pháp luật.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Đối với thiệt hại về sức khỏe của anh Mdo bị cáo gây ra, hậu quả anh Mphải điều trị tại Bệnh viện từ ngày 22/10/2022 đến ngày 04/11/2022 ra viện với các chi phí theo bản kê khai do anh M xuất trình với tổng chi phí là 198.400.000 đồng. Quá trình điều tra bị cáo đã bồi thường cho bị hại số tiền 45.000.000 đồng. Trước khi mở phiên tòa, bị cáo tự nguyện bồi thường thêm cho bị hại 10.000.000 đồng. Tại phiên tòa bị cáo và bị hại tự nguyện thỏa thuận bị cáo bồi thường thêm cho bị hại số tiền 10.000.000 đồng. Ngoài ra, bị hại không yêu cầu gì khác. Căn cứ các Điều 584; Điều 585; Điều 586 và Điều 590 Bộ luật Dân sự thấy sự thỏa thuận tự nguyện của bị cáo, bị hại là phù hợp pháp luật được Hội đồng xét xử ghi nhận.

[7] Về vật chứng của vụ án: Đối với 01 USB là dữ liệu được trích xuất từ camera tại quán karaoke S là tài liệu có trong hồ sơ nên lưu giữ hồ sơ vụ án.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9] Quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại các Điều 331; Điều 332 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về hình sự: Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134; Điều 48; Điều 50; điểm b điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự; Điều 135; Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự. Các Điều 584; Điều 585; Điều 586 và Điều 590 Bộ luật dân sự. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên bố bị cáo Tạ Văn S phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Xử phạt bị cáo Tạ Văn S 02 năm 03 tháng tù. Thời hạn tù, tính từ ngày bắt đi thi hành án. Được trừ thời gian đã tạm giữ từ ngày 22/10/2022 đến ngày 31/10/2022.

2. Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận sự thỏa thuận của bị cáo Tạ Văn S và bị hại anh Trịnh Văn M. Bị cáo Tạ Văn S tiếp tục bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho anh M số tiền 10.000.000 đồng.

3. Án phí: Bị cáo Tạ Văn S phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 500.000 đồng án phí dân sự.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Kề từ khi án có hiệu lực pháp luật, nếu người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án mà người phải thi hành án không thực hiện đầy đủ khoản tiền bồi thường còn lại thì còn phải chịu lãi, theo mức lãi được quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự, tương ứng với thời gian và số tiền chậm trả tại thời điểm thanh toán.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án theo quy định các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

50
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 16/2023/HS-ST

Số hiệu:16/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kim Bảng - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/02/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về