TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TIỀN GIANG
BẢN ÁN 151/2022/HS-PT NGÀY 19/07/2022 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 19 tháng 7 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 86/2022/TLPT-HS ngày 06 tháng 4 năm 2022 đối với bị cáo Võ Khánh D và Trần Gia B do có kháng cáo của bị cáo Võ Khánh D và Trần Gia B đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 26/2022/HS-ST ngày 21 tháng 02 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Tiền Giang.
- Các bị cáo có kháng cáo:
1) Võ Khánh D, sinh ngày 18/01/2001 tại tỉnh Tiền Giang;
- Nơi cư trú: ấp M, xã T, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
- Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 8/12;
- Dân tộc: Kinh; Gới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam;
- Con ông Võ Thanh V, sinh năm 1977 và bà Trần Thị Bích L, sinh năm1983;
- Bị cáo chưa có vợ, con;
- Tiền án, tiền sự: không;
- Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 18/01/2021, chuyển tạm giam từ ngày 21/01/2021 cho đến nay (có mặt).
- Người bào chữa cho bị cáo:
1. Luật sư Huỳnh Phước H - Công ty Luật TNHH Hãng Luật X - Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).
2. Luật sư Cao Thế L – Công ty Luật TNHH K – Đoàn Luật sư tỉnh Bạc Liêu (có mặt).
2) Trần Gia B, sinh ngày 11/5/1999 tại tỉnh Tiền Giang;
- Nơi cư trú: ấp A, xã Đ, huyện C, tỉnh Tiền Giang;
- Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 11/12;
- Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam;
- Con ông Trần Đình T, sinh năm 1974 và bà Mai Hồ Đ, sinh năm 1971;
- Vợ Trương Ngọc Mỹ D1 và 01 con;
- Tiền án: Không; Tiền sự: 01 lần - Đặc điểm nhân thân: Ngày 31/7/2019, bị Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Tiền Giang ra Quyết định số 60/2019/QĐ-TA về việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, với thời hạn 14 tháng, bị cáo chấp hành xong vào ngày 18/8/2020.
- Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa (có mặt).
Ngoài ra, còn có 01 bị cáo; 01 bị hại; 01 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng không có kháng cáo, bản án không bị kháng nghị.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 18 giờ ngày 16/01/2021, Lê Quốc T1 (tên gọi khác là Đ) đến nhà anh Trần Thanh T2 dự đám giỗ. Trong lúc dự tiệc, T1 ngồi chung bàn với Võ Khánh D (bạn T1) và nhiều người khác nhưng không rõ họ tên và địa chỉ. Đến khoảng 20 giờ 30 phút cùng ngày, trong lúc anh Huỳnh Thanh P (bạn của anh T2) ngồi bàn khác đang chọn bài hát karaoke thì T1 cũng lên hát karaoke; lúc này, T1 nghe D nói anh P giành hát với T1. Do đã có uống rượu, T1 đi đến chỗ P đang đứng cách khoảng 2m, rồi dùng chiếc đũa bằng gỗ lấy trên bàn ăn đâm vào hông bên trái (hạ sườn trái) của P 01 cái làm P bị thương tích, rồi quay lại bàn ngồi cạnh D.
Sau khi nhìn thấy T1 gây thương tích cho anh P, D liền lấy 01 con dao xếp bằng kim loại, dài khoảng 15 cm, lưỡi dài khoảng 5 – 7 cm mà D đã chuẩn bị sẵn đưa cho T1 nhằm mục đích đánh nhau với P. T1 cầm dao bỏ vào túi quần rồi điều khiển xe mô tô loại Exciter màu đỏ, biển số 63B2 – xxx.xx đi về Nhà trọ thuê tháng của T1 ở ấp H, xã H, huyện C để tìm người quay lại phụ T1 và D đánh nhau với P.
Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, T1 điện thoại cho Trần Gia B (bạn T1) kể lại sự việc T1 đánh nhau với P ở nhà anh T2 và rủ B cùng với T1 đi tìm P để đánh thì B đồng ý. Khoảng 22 giờ cùng ngày, T1 điều khiển xe mô tô biển số 63B2 – xxx.xx đến nhà B ở khu B, thị trấn C rước B rồi cả hai quay lại nhà anh T2. Do T1 đã say rượu, nên B điều khiển xe mô tô biển số 63B2 – xxx.xx chở T1 đi. Khi đến nhà anh T2, T1 và B không gặp được anh P, lúc này do muốn B và T1 gây thương tích cho anh P nên D nói cho T1 biết anh P được đưa đi cấp cứu tại Trung tâm y tế huyện C. Sau đó, B tiếp tục điều khiển xe mô tô biển số 63B2 – xxx.xx chở T1 đi đến Trung tâm y tế huyện C để tìm P; trên đường đi T1 rủ B ghé phòng trọ của T1 sử dụng ma túy. Sau khi sử dụng xong ma túy, T1 nhắc lại chuyện T1 đánh nhau với P, rồi rủ B đi đến Trung tâm y tế huyện C tìm P gây thương tích, thì B đồng ý.
Đến khoảng 23 giờ 30 phút ngày 16/01/2021, B chở T1 đi trên đường quốc lộ 1, khi đến trước Trung tâm y tế huyện C thì T1 nhìn thấy anh Nguyễn Văn Th đang điều khiển xe mô tô chở P đi từ trong Trung tâm y tế ra về đến trước cổng nên kêu B dừng xe lại đợi T1, còn T1 đi đến cách P khoảng 0,5m tay trái cầm dao của D đưa trước đó đâm vào người P 01 cái trúng vào vùng bụng bên phải của anh P gây thương tích; lúc này còn có chị Trần Thị Mỹ A và anh Trương Phát Đ là người đưa anh P đi cấp cứu nhìn thấy sự việc nên tiếp tục đưa anh P vào Trung tâm y tế huyện C cấp cứu, sau đó anh P được chuyển đến Bệnh viện đa khoa Trung tâm Tiền Giang điều trị đến ngày 25/01/2021 thì xuất viện.
Ngày 17/01/2021, Lê Quốc T1 đã ra đầu thú và khai nhận hành vi phạm tội của mình. Ngày 05/02/2021, Huỳnh Thanh P có đơn yêu cầu xử lý hình sự đối với Lê Quốc T1, Võ Khánh D và Trần Gia B.
Theo giấy chứng nhận thương tích số 04/CN-TTYT ngày 18/01/2021 của Trung tâm y tế huyện C xác định tình trạng thương tích lúc vào viện của Huỳnh Thanh P là: Vết thương cạnh trái rốn dài khoảng 02 cm, phồi mạc nối; hai vết rách da, vùng hong trái rách da mỗi vết 0.5 cm.
Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 75/2021/TgT ngày 19/01/2021 của Trung tâm Pháp y Tiền Giang kết luận: Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định của nạn nhân Huỳnh Thanh P là 30%.
Kết luận khác:
- Xác định vật gây thương tích:
Vết thương ở vùng thượng vị phải. Ruột non bị thủng 02 lỗ. Thương tích do vật sắc nhọn gây nên.
Vết thương rách da hạ sườn trái, đường nách giữa. Thương tích do vật sắc gây nên.
Vết mổ đường giữa trên dưới rốn. Dẫn lưu hố chậu trái. Thương tích do phẩu thuật gây nên.
- Phân tích tỷ lệ phần trăm từng vết thương: Vết thương vùng thượng vị trái, tỷ lệ: 01%. Vết mổ đường giữa trên dưới rốn, tỷ lệ: 02%.
Vết thương rách da hạ sườn trái, đường nách giữa, tỷ lệ: 02%. Dẫn lưu hố chậu trái, tỷ lệ: 01%.
Ruột non thủng 02 lỗ, đã phẩu thuật khâu lỗ thủng, tỷ lệ 26%.
Căn cứ vào Điều 4 Thông tư số 22/2019/TT-BYT ngày 28/8/2019 của Bộ Y tế thì xác định tổng tỷ lệ % tổn thương cơ thể của anh P là 29%. Do đó, các bị cáo T1, D và B phải chịu trách nhiệm hình sự đối với thương tích của bị hại Huỳnh Thanh P với tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể là 29%.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 26/2022/HS-ST ngày 21 tháng 02 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Tiền Giang đã quyết định:
Tuyên bố: Bị cáo Lê Quốc T1, bị cáo Võ Khánh D và bị cáo Trần Gia B phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
- Căn cứ vào điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Võ Khánh D 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ là ngày 18 tháng 01 năm 2021.
- Căn cứ vào điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Trần Gia B 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về hình phạt đối với bị cáo Lê Quốc T1, phần xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
- Ngày 02/3/2022, bị cáo Trần Gia B có đơn kháng cáo với nội dung: Xin được áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tiền.
- Ngày 03/3/2022, bị cáo Võ Khánh D có đơn kháng cáo với nội dung: Xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Bị cáo Võ Khánh D và Trần Gia B khai nhận hành vi phạm tội mà các bị cáo và đồng phạm Lê Quốc T1 đã thực hiện đúng như nội dung bản án sơ thẩm, đồng thời có ý kiến giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Bị cáo Võ Khánh D xin giảm nhẹ hình phạt; bị cáo Trần Gia B xin chuyển áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ hoặc hình phạt tiền.
- Đại diện Viện Kiểm sát phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
- Luật sư bào chữa cho các bị cáo có ý kiến:
+ Kết luận giám định pháp y không thể hiện vết thương do chiếc đũa gây ra là bao nhiêu và do con dao gây ra là bao nhiêu, nhưng bản án sơ thẩm lại quy kết tất cả các bị cáo phải chịu trách nhiệm gây thiệt cho bị hại 29% là chưa phù hợp.
+ Căn cứ Điều 17 Bộ luật Hình sự thì hành vi của các bị cáo T1, D, B không phải là đồng phạm.
+ Cơ quan tố tụng cấp sơ thẩm căn cứ lời khai và sự nhận diện của bị cáo B để xác định hung khí gây án là con dao dài 15cm (lưỡi dài từ 05 – 07cm) là không có căn cứ.
+ Mặt khác, theo lời khai của bị cáo B tại phiên tòa phúc thẩm là sau khi bị cáo T1, B sử dụng ma túy thì lượng ma túy còn lại do T1 cất giữ nhưng cấp sơ thẩm không điều tra làm rõ là có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm.
Tuy nhiên, do bị cáo D chỉ kháng cáo cáo xin giảm nhẹ hình phạt nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Lời khai nhận của các bị cáo Võ Khánh D và Trần Gia B tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu, chứng cứ trong hồ hơ vụ án, nên có đủ cơ sở xác định: Vào khoảng 20 giờ 30 ngày 16/01/2021, do bực tức việc anh Huỳnh Thanh P giành hát karaoke tại tiệc giỗ tại nhà anh Trần Thanh T2, thuộc ấp M, xã T, huyện C, tỉnh Tiền Giang nên bị cáo Lê Quốc T1 sử dụng chiếc đũa bằng gỗ đâm vào hông anh P 01 cái. Thấy vậy, bị cáo Võ Khánh D lấy con dao xếp dài khoảng 15 cm (lưỡi dài 05 - 07cm) đưa cho T1 để T1 đánh nhau với anh P nhưng T1 cầm dao chạy xe về nhà trọ và điện thoại rủ bị cáo Trần Gia B tham gia. Theo sự chỉ dẫn của bị cáo D, bị cáo B chạy xe chở bị cáo T1 đến Trung tâm y tế huyện C để tìm anh P. Khi phát hiện anh Nguyễn Văn Th chở anh P từ Trung tâm y tế ra thì bị cáo B dừng xe, bị cáo T1 cầm dao đi đến đâm anh P 01 nhát vào vùng bụng. Anh P bị thương tích với tỷ lệ tổn thương cơ thể tổng cộng là 29%. Trong đó, vết mổ đường giữa trên dưới rốn 02%; dẫn lưu hố chậu trái 01% và ruột non thủng 02 lỗ, đã phẩu thuật khâu lỗ thủng 26% . Do đó, bản án sơ thẩm đã xét xử các bị cáo Lê Quốc T1, Võ Khánh D và Trần Gia B về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, nên ý kiến của các Luật sư đề nghị xem xét lại tính hợp pháp của kết luận giám định, hung khí gây án là không có cơ sở.
[2] Xét yêu cầu kháng cáo của các bị cáo Võ Khánh D và Trần Gia B nhận thấy: Về ý thức chủ quan các bị cáo nhận thức được rằng, mọi người đều có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, mọi hành vi trái pháp luật gây tổn hại đến sức khỏe của người khác là vi phạm pháp luật, sẽ bị xử lý nghiêm khắc. Mặc dù giữa các bị cáo với bị hại không quen biết, không mâu thuẫn nhưng với bản tính hung hăng côn đồ mà bị cáo D đã có lời lẽ kích động, đưa hung khí cho bị cáo T1 thực hiện tội phạm; bị cáo B đồng tình cùng bị cáo T1 đi tìm kiếm bị hại để thực hiện tội phạm. Do đó, hành vi phạm tội của các bị cáo cần phải xử phạt nghiêm khắc, có như vậy mới đủ tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt và răn đe, phòng ngừa chung cho xã hội.
Khi quyết định hình phạt đối với các bị cáo, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đến tính chất và mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội mà các bị cáo gây ra; vai trò tham gia, đặc điểm nhân thân của từng bị cáo các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Đối với bị cáo D áp dụng điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự và bị cáo B theo điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt mỗi bị cáo hình phạt 02 năm 06 tháng tù là có phần nghiêm khắc. Do đó, xét yêu cầu kháng cáo của các bị cáo và ý kiến của các Luật sư đề nghị xem xét giảm nhẹ cho bị cáo D là có cơ sở nên chấp nhận. Tuy nhiên, xét nhân thân bị cáo B đã có tiền sự nên không đủ điều kiện cho bị cáo được hưởng hình phạt cải tạo không giam giữ.
[3] Xét ý kiến của các Luật sư nêu về việc có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm ma túy đối với bị cáo T1 và bị cáo B là không có căn cứ và làm xấu đi tình trạng của các bị cáo nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[4] Về án phí: Do yêu cầu kháng cáo của các bị cáo được chấp nhận, nên các bị cáo không phải chịu án phí phúc thẩm.
[5] Các phần khác của quyết định bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự.
1. Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của các bị cáo Võ Khánh D và Trần Gia B; sửa bản án hình sự sơ thẩm số 26/2022/HS-ST ngày 21/02/2022 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Tiền Giang.
2. Tuyên bố các bị cáo Võ Khánh D và bị cáo Trần Gia B phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Riêng bị cáo Võ Khánh D áp dụng thêm điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt:
- Bị cáo Võ Khánh D 02 (hai) năm tù; thời hạn tù tính từ ngày ngày 18 tháng 01 năm 2021.
- Bị cáo Trần Gia B 02 (hai) năm tù; thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.
3. Về án phí: Các bị cáo Võ Khánh D, Trần Gia B không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
4. Các phần khác của quyết định bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội cố ý gây thương tích số 151/2022/HS-PT
Số hiệu: | 151/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Tiền Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 19/07/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về