TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÙ MỸ, TỈNH BÌNH ĐỊNH
BẢN ÁN 14/2022/HS-ST NGÀY 03/03/2022 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 03 tháng 3 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 12/2022/TLST-HS ngày 07 tháng 01 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 511/2022/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 02 năm 2022, đối với bị cáo:
Đặng N, sinh năm: 1985, tại: Xã MC, huyện PM, tỉnh BĐ; nơi cư trú: Thôn AH, xã MC, huyện PM, tỉnh BĐ; nghề nghiệp: Diêm nghiệp; trình độ văn hoá (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng H (chết) và bà Đỗ Thị Xuân H1 (chết); có vợ và 03 người con, lớn nhất sinh năm 2007 và nhỏ nhất sinh năm 2011; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt, tạm giam: Không; bị cáo hiện đang tại ngoại, có mặt.
- Bị hại: Ông Đặng L, sinh năm: 1968; nơi cư trú: Thôn AH, xã MC, huyện PM, tỉnh BĐ. (có mặt) - Người làm chứng:
+ Ông Ngô Văn T, sinh năm: 1987; nơi cư trú: Thôn AX 2, xã MC, huyện PM, tỉnh BĐ; (vắng mặt)
+ Ông Võ Văn L1, sinh năm: 1966; nơi cư trú: Thôn AX2, xã MC, huyện PM, tỉnh BĐ; (vắng mặt)
+ Ông Dương Văn P, sinh năm: 1972; nơi cư trú: Thôn AX2, xã MC, huyện PM, tỉnh BĐ; (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Đặng N và Đặng L là anh em ruột nhưng trong cuộc sống không hoà thuận, thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, cãi vã. Vào ngày 01/10/2021, khi đưa cơm cho những người làm thuê đến đắp bờ đìa, ông L có dựng xe mô tô biển số kiểm soát 77D1-… trước cổng nhà Đặng N. Khoảng 09 giờ 30 phút cùng ngày, Đặng N về nhà thấy xe mô tô của ông L dựng trước cổng nhà mình, do bực tức chuyện mâu thuẫn trước đó với ông L nên N dùng chân đạp ngã xe mô tô của ông L, phần đầu xe nằm dưới cống nước. Thấy vậy, ông L dùng hai tay để nắm kéo xe mô tô lên thì giữa ông L và N xảy ra cãi vã, N vào nhà cầm rựa chạy ra đứng phía bên hông ông L kê phần lưỡi rựa lê vùng cổ của ông L hăm doạ. Lúc này, ông L nói “chẳng lẽ mày giết tao na” thì N vung rựa chém xuống, ông dùng tay đỡ nên trúng vào lòng bàn tay trái, ông L hoản sợ, la lớn và hất rựa để quay người bỏ chạy, N giật rựa làm phần đầu lưỡi rựa móc trúng vào phần áo trên cánh tay trái của ông L. Sau đó, ông L chạy được 02 đến 03 bước chân thì từ phái sau N cầm rựa chém trúng bắp tay trái của ông L. Do thương tích và hoản sợ, ông L bỏ chạy thì N đuổi theo khoảng 03 mét thì dừng lại quay vào nhà ngủ, còn ông L được mọi người đưa đi cấp cứu.
Theo kết luận giám định pháp y về thương tích số: 282/2021/PY-TgT ngày 09/11/2021 của Trung tâm pháp y tỉnh Bình Định kết luận: vết thương vùng cánh tay trái đã khâu, điều trị; hiện cánh tay trái đoạn 1/3 trên–sau vết thương để sẹo kích thước (1,5x0,3)cm, sẹo rõ; vết thương bàn tay trái đã khâu điều trị, hiện mặt gang bàn tay trái tương ứng ô mô út vết thương để lại sẹo kích thước (1,5x0,2)cm, sẹo mờ, vận động các ngón tay bình thường. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 02%.
Xe mô tô biển số kiểm soát 77D1-….. hư hỏng, trị giá thiệt hại là 893.000 đồng Vật chứng thu giữ gồm: 01 cái rựa dài 57cm, cán bằng gỗ dài 30cm, đầu cán có bọc kim loại màu trắng sáng, lưỡi rựa làm bằng kim loại đã rỉ sét dài 27cm, bản dẹp, rộng 4,1cm; 01 áo vải hoạ tiết quân đội, dài tay, trên ống tay trái đoạn gần lô gô “Quân đội nhân dân Việt Nam” có 02 vết rách thủng vải trong đó một vết rách kích thước 03cm và một vết rách nham nhở KT(01x01)cm trên cánh tay áo trái có dính nhiều vết màu nâu đỏ, đã khô; 01 áo thun màu xám, tay ngắn, có cổ, viền tay áo màu xanh dương, trên áo có chữ ENLIE, trên cánh tay áo trái có hai vết rách thủng vải trong đó một vết rách kích thước 03cm và một vết rách nham nhở KT (01x01)cm trên cánh tay áo trái có dính nhiều vết màu nâu đỏ, đã khô.
Về trách nhiệm dân sự: Ông Đặng L yêu cầu bồi thường toàn bộ thiệt hại sức khoẻ và tài sản với số tiền 52.463.724 đồng; Đặng N đã bồi thường trước cho ông L số tiền 10.000.000 đồng.
Tại bản cáo trạng số: 05/CT-VKSPM ngày 06/01/2022 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định đã truy tố bị cáo Đặng N ra trước Tòa án nhân dân huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định để xét xử về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm a khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự.
Tại phiên toà Kiểm sát viên của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định giữ nguyên quyết định truy tố, nêu bản luận tội và đề nghị Hội đồng xét xử:
- Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 134; các điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Đặng N từ 06 tháng đến 09 tháng tù - Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Áp dụng Điều 48 của Bộ luật hình sự và các Điều 584, 585, 589, 590 của Bộ luật dân sự. Buộc bị cáo Đặng N bồi thường toàn bộ thiệt hại sức khỏe cho ông Đặng L với số tiền 26.532.700 đồng nhưng được trừ số tiền 10.000.000 đồng mà bị cáo N đã bồi thường trước, còn lại phải bồi thường số tiền 16.532.700 đồng và bồi thường thiệt hại tài sản cho Đặng L với số tiền 893.000 đồng.
- Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự và các điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu, tiêu huỷ: 01 cái rựa dài 57cm, cán bằng gỗ dài 30cm, đầu cán có bọc kim loại màu trắng sáng, lưỡi rựa làm bằng kim loại đã rỉ sét dài 27cm, bản dẹp, rộng 4,1cm; 01 áo vải hoạ tiết quân đội, dài tay, trên ống tay trái đoạn gần lô gô “Quân đội nhân dân Việt Nam” có 02 vết rách thủng vải trong đó một vết rách kích thước 03cm và một vết rách nham nhở KT(01x01)cm trên cánh tay áo trái có dính nhiều vết màu nâu đỏ, đã khô; 01 áo thun màu xám, tay ngắn, có cổ, viền tay áo màu xanh dương, trên áo có chữ ENLIE, trên cánh tay áo trái có hai vết rách thủng vải trong đó một vết rách kích thước 03cm và một vết rách nham nhở KT(01x01)cm trên cánh tay áo trái có dính nhiều vết màu nâu đỏ, đã khô.
Tại phiên toà bị cáo N khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội nêu trên; bị cáo đồng ý bồi thường thêm thiệt hại sức khoẻ cho cho bị hại số tiền 16.532.700 đồng và đồng ý bồi thường thiệt hại tài sản cho ông Lộc với số tiền 893.000 đồng; không có ý kiến tranh luận với Kiểm sát viên. Bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Tại phiên tòa bị hại ông Đặng L xác định: Thiệt hại tài sản là xe mô tô biển số kiểm soát 77D1-… là do bị cáo N gây ra, yêu cầu bị cáo N bồi thường với số tiền 893.000 đồng. Thương tích của bị hại vào ngày 01/10/2021 là do bị cáo N sử dụng rựa gây ra. Sau khi bị thương tích, bị cáo N đã bồi thường được số tiền 10.000.000 đồng. Bị hại yêu cầu bị cáo N bồi thường thêm thiệt hại sức khoẻ với số tiền 16.532.700 đồng và đề nghị xử phạt bị cáo N theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra-Công an huyện Phù Mỹ, Điều tra viên, Cán bộ điều tra; Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Mỹ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo:
Xét lời khai của bị cáo Đặng N tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thu thập đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 01/10/2021, tại đoạn đường trước nhà bị cáo Đặng N thuộc thôn AH, xã MC, huyện PM, tỉnh BĐ. Bị cáo Đặng N sử dụng rựa (là hung khí nguy hiểm) gây thương tích ở cánh tay trái, bàn tay trái của bị hại Đặng L.
Tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo N nhận thức được hành vi sử dụng cái rựa là hung khí nguy hiểm gây thương tích đối với người khác là hành vi gây nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo nhận thức được hậu quả do hành vi của bị cáo thực hiện sẽ gây tổn hại về sức khỏe đối với người khác, nhưng chỉ vì mâu thuẫn nhỏ trong cuộc sống hàng ngày mà bị cáo sử dụng hung khí nguy hiểm gây thương tích đối với bị hại. Hậu quả hành vi của bị cáo Nga đã gây tổn thương cơ thể do thương tích gây nên cho bị hại L là 02%.
Hành vi nêu trên của bị cáo N đã phạm vào tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 134 của Bộ luật hình sự. Cáo trạng số:
05/CT-VKSPM ngày 06/01/2021 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định đã truy tố bị cáo N là có căn cứ và đúng quy định của pháp luật.
Hành vi phạm tội của bị cáo N không những xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ mà còn gây mất trật tự trị an xã hội. Do đó, cần xử phạt mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, nhằm phát huy được tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và góp phần răn đe, phòng ngừa chung trong toàn xã hội.
[3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội bị cáo đã trực tiếp bồi thường cho bị hại số tiền 10.000.000 đồng; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị cáo và bị hại là anh em ruột trong gia đình. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại các điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
[4] Căn cứ vào tính chất, mức độ, hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo thấy rằng: Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Bị cáo có nghề nghiệp ổn định và nơi cư trú cụ thể, rõ ràng. Bị cáo có khả năng tự cải tạo và nếu không bắt bị cáo đi chấp hành hình phạt tù thì không gây ảnh hưởng xấu đến cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng Điều 65 của Bộ luật hình sự, cho bị cáo được hưởng án treo cũng có thể giáo dục bị cáo có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa phạm tội mới.
[5] Về trách nhiệm dân sự:
[5.1] Đối với thiệt hại sức khỏe của bị hại Đặng L: Sau khi bị thương tích bị hại được đưa đi sơ cứu và điều trị tại Trung tâm y tế huyện Phù Mỹ từ ngày 01/10/2021 đến ngày 12/10/2021 thì xuất viện.
Tại phiên toà bị cáo N và bị hại L thoả thuận thống nhất: bị cáo N bồi thường toàn bộ thiệt hại sức khoẻ cho bị hại L với số tiền 26.532.700 đồng nhưng được trừ số tiền đã bồi thường trước là 10.000.000 đồng, còn lại bị cáo phải bồi thường thêm số tiền cho bị hại là 16.532.700 đồng. Xét việc thoản thuận giữa bị cáo và bị hại là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với đạo đức xã hội và phù hợp với quy định của pháp luật, nên được chấp nhận.
[5.2] Thiệt hại tài sản là xe mô tô của bị hại L là do bị cáo N gây ra. Tại phiên toà bị cáo N và bị hại L thoả thuận thống nhất: bị cáo N bồi thường thiệt hại tài sản cho bị hại L với số 893.000 đồng. Xét việc thoản thuận giữa bị cáo và bị hại là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với đạo đức xã hội và phù hợp với quy định của pháp luật, nên được chấp nhận.
[6] Về các biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng:
- 01 cái rựa dài 57cm, cán bằng gỗ dài 30cm, đầu cán có bọc kim loại màu trắng sáng, lưỡi rựa làm bằng kim loại đã rỉ sét dài 27cm, bản dẹp, rộng 4,1cm. Đây là công cụ bị cáo dùng để phạm tội, nên tịch thu, tiêu hủy theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;
- 01 áo vải hoạ tiết quân đội, dài tay, trên ống tay trái đoạn gần lô gô “Quân đội nhân dân Việt Nam” có 02 vết rách thủng vải trong đó một vết rách kích thước 03cm và một vết rách nham nhở KT(01x01)cm trên cánh tay áo trái có dính nhiều vết màu nâu đỏ, đã khô; 01 áo thun màu xám, tay ngắn, có cổ, viền tay áo màu xanh dương, trên áo có chữ ENLIE, trên cánh tay áo trái có hai vết rách thủng vải trong đó một vết rách kích thước 03cm và một vết rách nham nhở KT(01x01)cm trên cánh tay áo trái có dính nhiều vết màu nâu đỏ, đã khô. Đây là tài sản của bị hại Đặng Lộc. Tuy nhiên, bị hại Đặng Lộc không nhận lại và là vật không có giá trị, nên tịch thu, tiêu hủy là phù hợp.
[7] Đối với hành vi của bị cáo gây thiệt hại tài sản của bị hại L có giá trị 893.000 đồng, nên Cơ quan cảnh sát điều tra-Công an huyện Phù Mỹ không xử lý trách nhiệm hình sự mà ra Quyết định xử phạt hành chính là phù hợp.
[8] Về đề nghị của Kiểm sát viên đối với vụ án: Về tội danh, điều luật áp dụng, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, mức hình phạt đều hoàn toàn phù hợp, nên được chấp nhận. Tuy nhiên, đề nghị xử phạt tù đối với bị cáo là có phần nghiêm khắc.
[9] Về án phí: Buộc bị cáo Đặng N phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Đặng N phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
1. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 134; các điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật hình sự năm 2015.
Xử phạt bị cáo Đặng N 06 (Sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 12 (Mười hai) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 03/3/2022).
Giao bị cáo Đặng N cho Ủy ban nhân dân xã MC, huyện PM, tỉnh BĐ giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo Đặng N vắng mặt tại nơi cư trú, thay đổi nơi cư trú hoặc nơi làm việc thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật thi hành án hình sự năm 2019.
Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo Đặng N cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo Đặng N phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
2. Về bồi thường thiệt hại: Áp dụng Điều 48 của Bộ luật hình sự và các Điều 584, 585, 589, 590 của Bộ luật dân sự.
Buộc bị cáo Đặng N bồi thường toàn bộ thiệt hại sức khỏe cho bị hại Đặng L với số tiền 26.532.700 đồng, nhưng được trừ số tiền 10.000.000 đồng mà bị cáo N đã bồi thường trước cho bị hại L, còn lại bị cáo N phải bồi thường số tiền là 16.532.700 đồng. (Số tiền bằng chữ: Mười sáu triệu năm trăm ba mươi hai nghìn bảy trăm đồng).
Buộc bị cáo Đặng N bồi thường thiệt hại tài sản cho bị hại Đặng L số tiền 893.000 đồng (Số tiền bằng chữ: Tám trăm chín mươi ba nghìn đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015
3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 và các điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.
Tịch thu và tiêu hủy: 01 cái rựa dài 57cm, cán bằng gỗ dài 30cm, đầu cán có bọc kim loại màu trắng sáng, lưỡi rựa làm bằng kim loại đã rỉ sét dài 27cm, bản dẹp, rộng 4,1cm; 01 áo vải hoạ tiết quân đội, dài tay, trên ống tay trái đoạn gần lô gô “Quân đội nhân dân Việt Nam” có 02 vết rách thủng vải trong đó một vết rách kích thước 03cm và một vết rách nham nhở KT(01x01)cm trên cánh tay áo trái có dính nhiều vết màu nâu đỏ, đã khô; 01 áo thun màu xám, tay ngắn, có cổ, viền tay áo màu xanh dương, trên áo có chữ ENLIE, trên cánh tay áo trái có hai vết rách thủng vải trong đó một vết rách kích thước 03cm và một vết rách nham nhở KT(01x01)cm trên cánh tay áo trái có dính nhiều vết màu nâu đỏ, đã khô. (Các vật chứng trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định theo Quyết định về việc chuyển vật chứng số: 04/QĐ-VKS ngày 06/01/2022 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Mỹ và Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 06/01/2022 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Phù Mỹ và Chi cục thi hành án dân sự huyện Phù Mỹ).
4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án.
Buộc bị cáo Đặng N phải chịu 200.000 đồng (Số tiền bằng chữ: Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 871.200 đồng (Số tiền bằng chữ: Tám trăm bảy mươi mốt nghìn hai trăm đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015.
Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp Bản án, Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tội cố ý gây thương tích số 14/2022/HS-ST
Số hiệu: | 14/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Phù Mỹ - Bình Định |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 03/03/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về