Bản án về tội cố ý gây thương tích số 130/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 130/2022/HS-PT NGÀY 26/09/2022 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 26 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở, Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 103/2022/TLPT-HS ngày 03 tháng 8 năm 2022 đối với bị cáo Võ Nhật L, do có kháng cáo của bị hại đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 20/2022/TLPT-HS ngày 27 tháng 7 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau.

- Bị cáo bị kháng cáo:

Họ và tên: Vỏ Nhật L (tên gọi khác: Võ Nhật L, La), sinh ngày 06/9/1998 tại huyện T, tỉnh Cà Mau Nơi cư trú: huyện T, tỉnh Cà Mau; nghề nghiệp: Làm vuông; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vỏ Văn T và bà Ngô Thị T; chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 27/9/2021 đến nay.

Nhân thân: Ngày 21/3/2022 bị Công an huyện T xử phạt vi phạm hành chính số tiền 2.000.000đ về hành vi Cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác, đã nộp phạt ngày 31/3/2022 (Hành vi đập phá tài sản của anh Huỳnh Văn H tại vụ án này).

- Những người tham gia tố tụng khác có có liên quan đến kháng cáo: Huỳnh Minh K là bị hại.

- Bị hại: Anh Huỳnh Minh K (tên gọi khác: Kh), sinh năm 1984; Nơi cư trú: huyện T, tỉnh Cà Mau.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 19 giờ ngày 24/4/2021, Trần Văn Đ (sinh năm 2000) và Trần Hào N (sinh năm 2005) đến uống nước tại quán Thảo Trang thuộc huyện T, tỉnh Cà Mau. Đắt để xe máy bên sân nhà anh Huỳnh Minh K ở bên cạnh quán thì giữa anh K với N và Đ xảy ra cự cải nhau. Anh K điện thoại cho anh Huỳnh Văn Đ (em ruột của anh K), anh Đ đến thì anh K dùng tay, anh Đ dùng mũ bảo hiểm, ghế nhựa đánh N, Đ nhưng không gây thương tích.

Sau khi bị đánh, Đ chạy về và kể lại sự việc với chị Từ Thị K (là cô bà con của Đ); Chị K điện thoại cho anh Trần Văn H (là chú bà con của Đ, anh bà con của Hào N) và bà Trần Thị T (mẹ ruột của Hào N) báo lại sự việc. Lúc này, Trần Văn T (em ruột H) cũng biết sự việc nên điện thoại cho Vỏ Nhật L (gần nhà T) hay và kêu Linh đến xem sao. T chạy xe máy biển số 69H1-324.13 chở bà T đến và nói chuyện với K. Sau đó, Vỏ Nhật L chạy xe máy biển số 69D1-410.94 chở Lâm Văn Trí L đến. Anh H một mình đi xe máy biển số 68H1-178.52 đến sau.

Trong lúc anh K và H nói với nhau thì xảy ra cự cãi và chửi nhau nên anh H cầm nón bảo hiểm ném vào người anh K trúng vào ngực; Anh H tiếp tục xông tới dùng tay không đánh vào mặt K nhưng không gây thương tích. Nhật L vì bênh vực H, N, Đ nên khi nghe anh K chửi, cự cải, Nhật L dùng một thanh kim loại dài khoảng 60cm, có hình dạng như dao tự chế (L khai lấy ở tiệm sắt Y Gel trên đường đi đến) chém từ trên xuống trúng vào phần môi, răng, lưỡi của anh K, gây thương tích ở vùng môi, lưỡi, răng với tỷ lệ 11%.

Ngoài ra, sau khi đánh nhau xong thì giải tán, nhóm của anh H về thì giữa anh K với anh T tiếp tục xảy ra xô xát, rượt đuổi nhau. Võ Nhật L tiếp tục quay lại đập vở bàn ghế nhựa của anh Huỳnh Văn H (anh ruột của anh K, nhà đối diện nhà anh K) thiệt hại 430.000đ nên bị xử phạt hành chính 2.000.000đ.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 20/2022/TLPT-HS ngày 27 tháng 7 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Cà Mau, quyết định:

Căn cứ vào điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật hình sự. Điều 590 Bộ luật dân sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTV Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên bố bị cáo Vỏ Nhật L phạm tội “Cố ý gây thương tích” Phạt bị cáo L 02 (hai) năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 04 (bốn) năm, kể từ ngày tuyên án.

Bị cáo Võ Nhật L bồi thường cho bị hại K 125.000.000đ (Bị hại K đã nhận 100.000.000đ, bị cáo đã nộp bồi thường 25.000.000đ).

Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về nghĩa vụ chấp hành án treo, trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

- Ngày 11 tháng 8 năm 2022, bị hại Huỳnh Minh K có đơn kháng cáo không đồng ý cho bị cáo Vỏ Nhật L hưởng án treo.

Tại phiên tòa, bị hại Huỳnh Minh K giữ nguyên nội dung kháng cáo.

Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa:

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự; không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị hại Huỳnh Minh K; giữ nguyên bản án sơ thẩm về hình phạt đối với bị cáo Huỳnh Minh K.

- Bị hại: Không đồng ý với đề nghị của Viện kiểm sát, với lý do: Bị cáo cố tình phạm tội, gây thương tích bằng hung khí nguy hiểm; yêu cầu Hội đồng xét xử không cho bị cáo hưởng án treo.

- Bị cáo: Không có ý kiến tranh luận; Bị cáo xin lỗi bị hại, bị cáo do không kềm chế dẫn đến phạm tội, bị cáo rất ân hận, xin Hội đồng xét xử giữ nguyên án sơ thẩm để bị cáo an tâm cải tạo trở thành người có ích cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tội danh: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa sơ, phúc thẩm, bị cáo Vỏ Nhật L và bị hại Huỳnh Minh K đều thống nhất khai nhận: Vào tối ngày 24/4/2021, tại phía trước nhà bị hại K thuộc huyện T, tỉnh Cà Mau, Trần Văn H và bị hại K cự cải nhau, H cầm nón bảo hiểm ném vào người anh K. H tiếp tục xông tới dùng tay không đánh vào mặt K nhưng không gây thương tích. Bị cáo L vì bênh vực H, N, Đ nên khi nghe anh K chửi, cự cải thì L dùng một thanh kim loại dài khoảng 60cm, có hình dạng như dao tự chế đến đứng đối diện, chém một nhát từ trên xuống trúng vào phần môi, răng, lưỡi của bị hại K, gây thương tích ở vùng môi, lưỡi, răng với tỷ lệ 11%.

Nguyên nhân đánh nhau là do trước đó bị hại K đã đánh Trần Văn Đ và Trần Hào N là cháu của H và là bạn của L.

Do bị cáo L sử dụng thanh kim loại là hung khí nguy hiểm gây án nên Bản án hình sự sơ thẩm số 20/2022/TLPT-HS ngày 27 tháng 7 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Cà Mau xét xử bị cáo Linh về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự là đúng quy định pháp luật.

[2]. Xét kháng cáo của bị hại, thấy rằng: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến sức khỏe người khác trái pháp luật. Khi quyết định hình phạt, cấp sơ thẩm có áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ về trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, như: Bị cáo thành khẩn khai báo; bị cáo đã tự nguyện bồi thường toàn bộ số tiền theo yêu cầu bị hại mà số tiền này vượt gấp nhiều lần so với số tiền thiệt hại thực tế mà bị hại chi phí; điều này đã chứng minh bị cáo đã ăn năn hối cải, quyết tâm khắc phục hậu quả và sửa chữa bản thân. Bản thân bị cáo là bộ đội xuất ngũ, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng; Ngoài lần phạm này ra thì tại địa phương bị cáo là công dân tốt, nhân thân không tiền án tiền sự; Tỷ lệ thương tích của bị hại chỉ ở mức 11%; Bị cáo nhất thời phạm tội; Trong giai đoạn sơ thẩm bị hại tự nguyện làm đơn không yêu cầu xử lý hình sự đối với bị cáo để từ đó án sơ thẩm cho bị cáo được hưởng án treo là thỏa đáng cũng đủ điều kiện để giáo dục bị cáo trở hành người tốt cho xã hội. Việc cho bị cáo được hưởng án treo cũng không ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Bị hại kháng cáo không đồng ý cho bị cáo hưởng án treo nhưng không đưa ra được tình tiết nào mới có tính chất nghiêm trọng làm tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo nên chấp nhận đề nghị của Viện Kiểm sát, giữ nguyên quyết định án sơ thẩm; không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị hại.

[3]. Án phí hình sự phúc thẩm bị hại không phải chịu.

[4]. Các phần khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực thi hành kể từ khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị hại; Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 20/2022/TLPT-HS ngày 27 tháng 7 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Cà Mau về hình phạt đối với bị cáo Vỏ Nhật L.

2. Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134, Điểm b và s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Khoản 1, 2 và 5 Điều 65 của Bộ luật hình sự; Khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTV Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Xử phạt bị cáo Vỏ Nhật L 02 (hai) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích” nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 04 (bốn) năm; Thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách là ngày 27 tháng 7 năm 2022.

Giao Vỏ Nhật L cho huyện T, tỉnh Cà Mau giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp Vỏ Nhật L thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật hình sự.

Án phí hình sự phúc thẩm: Bị hại không phải chịu.

3. Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

74
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 130/2022/HS-PT

Số hiệu:130/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Cà Mau
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về