TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG THÀNH, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 123/2022/HS-ST NGÀY 10/08/2022 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 10 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 107/2022/TLST-HS ngày 23 tháng 6 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 121/2022/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 7 năm 2022, đối với bị cáo: Trần Minh Q; sinh năm 2000 tại Đồng Nai; nơi đăng ký thường trú: Ấp 3, xã PB, huyện LT, tỉnh Đồng Nai; nơi sinh sống: Ấp 1B, xã PT, huyện LT, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn T và bà Ngô Thị N; gia đình có 04 anh em, bị cáo là con thứ nhất, chưa có vợ, con; tiền án: Không, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt, tạm giam từ ngày 09/8/2022 theo Quyết định bắt, tạm giam số 177 ngày 27/7/2022 của Tòa án nhân dân huyện Long Thành; có mặt tại phiên tòa.
- Bị hại: Anh Nguyễn Thanh V, sinh năm: 1993. “có mặt” Nơi đăng ký thường trú: 261/27, ấp TB, xã TA, huyện CG, TP. Hồ Chí Minh.
Nơi sinh sống: Ấp 4, xã PH, thị xã PM, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu.
- Người làm chứng:
1. Anh Nguyễn Thanh P, sinh năm: 1996.
2. Chị Trương Thị Thảo L, sinh năm: 1988. “có mặt” 3. Anh Nguyễn Lê Quang L, sinh năm: 1993. (Anh P, anh L vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 27/10/2021 Nguyễn Thanh P, Nguyễn Lê Quang L, Trương Thị Thảo L và Nguyễn Thanh Vđang ngồi nhậu tại phòng trọ do Vũ thuê ở ấp 1B, xã Phước Thái, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai, thì có Trần Minh Q ở trọ gần đó đi bộ đến xin thuốc lá hút và mượn xe mô tô của anh Phước nhưng anh Phước không cho mượn nên Q mượn xe mô tô của anh Linh đi công việc. Khoảng 30 phút sau, Q quay lại trả xe thì giữa Q và anh Phước cự cãi với nhau, bực tức Q về nhà lấy 01 con dao tự chế có lưỡi dao bằng kim loại, cán bằng gỗ dài 50cm quay lại phòng trọ của anh V, cầm dao chém về hướng nơi anh Phước đang ngồi. Lúc này, anh Phước đang ngồi quay mặt vào trong nên không nhìn thấy còn anh V ngồi đối diện phát hiện thấy Q giơ dao chém anh Phước nên anh V đứng dậy giơ tay lên đỡ thì bị Q chém trúng vào ngón tay phải gây thương tích. Thấy anh V chảy máu thì Q cầm dao bỏ đi về nhà. Ngày 05/01/2022 anh Nguyễn Thanh Vlàm đơn yêu cầu khởi tố đối với Trần Minh Q về hành vi gây thương tích như nêu trên.
Vật chứng vụ án: Trên đường về nhà Q đã vứt bỏ con dao nên không thu hồi được.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 0916 ngày 17/12/2021 của Trung tâm pháp y tỉnh Đồng Nai, kết luận:
1. Dấu hiệu chính qua giám định:
- Sẹo vết thương ngón 1 bàn tay phải kích thước 2,5 x 0,3cm. Tỷ lệ: 01%.
- Sẹo vết mổ ngón 1 bàn tay phải kích thước 02 x 0,3cm. Tỷ lệ: 01%.
2. Kết luận: Căn cứ thông tư số 22/2019/TT-BYT ngày 28/8/2019 của Bộ trưởng Bộ Y tế Quy định tỷ lệ tổn thương cơ thể áp dụng trong giám định Pháp y, tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định của nạn nhân Nguyễn Thanh Váp dụng theo thông tư là: 02% (Hai phần trăm).
3. Kết luận khác:
Vật gây thương tích: Vật sắc.
Tại Cáo trạng số 101/CT-VKSLT ngày 20 tháng 6 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành đã truy tố bị cáo Trần Minh Q về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm a, i khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị áp dụng điểm a, i khoản 1 Điều 134, điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Trần Minh Q từ 08 – 10 tháng tù giam.
Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị Tòa án tuyên buộc bị cáo Trần Minh Q phải bồi thường cho anh V theo quy định của pháp luật.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị hại trình bày: Thống nhất với nội dung bản cáo trạng đã nêu và lời khai của bị cáo. Yêu cầu bị cáo phải bồi thường chi phí điều trị phục hồi sức khỏe và tổn thất tinh thần, tiền mất thu nhập trong thời gian điều trị bệnh với số tiền 15.000.000 đồng, bị cáo Q đã đồng ý bồi thường theo yêu cầu của bị hại.
Tại phiên Tòa bị cáo không phát biểu tranh luận, không nói lời nói sau cùng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Vụ án không thuộc trường hợp tạm đình chỉ hoặc trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Trong quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra, điều tra viên, Viện kiểm sát, kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, các tài liệu, chứng cứ được thu thập đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi cũng như quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
[2] Về chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định không có tội: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như phần nội dung vụ án đã tóm tắt nêu trên, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng, kết luận giám định và các chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Thể hiện, vào lúc 19 giờ 30 phút ngày 27/10/2021 tại phòng trọ của anh Nguyễn Thanh Vở ấp 1B, xã Phước Thái, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai, Trần Minh Q do mâu thuẫn nhỏ với anh Nguyễn Thanh P, Q dùng hung khí là dao tự chế có lưỡi dao bằng kim loại, cán bằng gỗ dài 50cm chém anh Phước nhưng được anh Nguyễn Thanh Vđến can ngăn thì bị Q chém trúng ngón tay phải anh V gây thương tích là 02%. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” được quy định tại điểm a, i khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017 như Viện kiểm sát truy tố là có căn cứ và đúng quy định pháp luật.
[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Hành vi nêu trên của bị cáo đã trực tiếp xâm hại đến quyền được bảo hộ về sức khoẻ của công dân, gây mất trật tự trị an xã hội trên địa bàn. Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đủ khả năng nhận thức hành vi của mình là sai trái, nguy hiểm cho xã hội. Song vì coi thường pháp luật, không kiềm chế được bản thân nên bị cáo đã thực hiện hành vi gây thương tích cho người khác. Lỗi của bị cáo trong vụ án là lỗi cố ý trực tiếp, do vậy bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi đã thực hiện. Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải có một hình phạt nghiêm khắc tương xứng với tính chất, hành vi mà bị cáo đã thực hiện. Do đó, việc cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo cũng như đáp ứng mục đích đấu tranh phòng ngừa tội phạm trên địa bàn là cần thiết.
[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:
Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Nguyễn Thanh Vyêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 15.000.000 đồng, bị cáo đồng ý. Xét thấy, ý kiến của bị cáo và bị hại là tự nguyện, phù hợp với Điều 48 Bộ luật Hình sự, Điều 584 và Điều 590 Bộ luật Dân sự nên Hội đồng xét xử ghi nhận.
[6] Về xử lý vật chứng: Vật chứng không thu hồi được nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự và dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1.Căn cứ điểm a, i khoản 1 Điều 134; điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 38, khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017);
Căn cứ Điều 584, Điều 590; khoản 2 Điều 357, khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015;
Căn cứ Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên bố: Bị cáo Trần Minh Q phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
Xử phạt bị cáo Trần Minh Q 07 (bảy) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 09 tháng 8 năm 2022.
2. Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Trần Minh Q phải bồi thường cho bị hại Nguyễn Thanh Vsố tiền 15.000.000 đồng (Mười lăm triệu đồng).
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án nộp đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án chưa thanh toán xong số tiền phải thi hành thì còn phải chịu khoản tiền lãi theo quy định tại khoản 2 Điều 357 và khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự, tương ứng với số tiền và thời gian chậm trả tại thời điểm thi hành án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự.
3. Về án phí: Bị cáo Trần Minh Q phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và phải chịu 750.000 đồng (bảy trăm năm mươi ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội cố ý gây thương tích số 123/2022/HS-ST
Số hiệu: | 123/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Long Thành - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 10/08/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về