Bản án về tội cố ý gây thương tích số 105/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 105/2022/HS-ST NGÀY 23/03/2022 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 23 tháng 3 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 569/TLST-HS ngày 19 tháng 11 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 575/2021/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 12 năm 2021, Quyết định hoãn phiên toà số 05/2022/HPT-QĐ ngày 05 tháng 01 năm 2022, Thông báo về việc thay đổi thời gian xét xử vụ án số 20/TB-TA ngày 11/01/2022 và Thông báo về việc mở lại phiên toà số 250/TB-TA ngày 24/02/2022 đối với bị cáo:

Trần Văn S.

Tên gọi khác: Không - Giới tính: Nam.

Sinh năm 1965, tại Nam Định.

Nơi đăng ký HKTT: Không.

Nơi ở hiện nay: Tổ 7, khu phố TC, phường P, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

Quốc tịch: Việt Nam - Dân tộc: Kinh - Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Không - Trình độ học vấn: Lớp 02/12.

Họ tên cha: Trần Văn T – Sinh năm 1932 (Đã chết). Họ tên mẹ: Hoàng Thị H - Sinh năm 1932 (Đã chết). Gia đình có 05 anh chị em, bị cáo là con thứ ba.

Họ tên vợ: Lê Thị N (ly hôn). Hiện đang chung sống với chị Đỗ Thị T1 – sinh năm 1978.

Bị cáo có 04 con, lớn nhất sinh năm 1993, nhỏ nhất sinh năm 2020.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 31-3-1998, bị Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai xử phạt tù 12 tháng về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản của công dân”. Bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 04-01-1999.

Bị cáo bị bắt để tạm giam vào ngày 08/02/2022 theo quyết định số 03/2022/HSST-QĐBTG ngày 05/01/2022 của Toà án nhân dân thành phố Biên Hòa. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố B.

Bị cáo có mặt.

* Bị hại: Anh Phạm Lê H, sinh năm 1983.

Địa chỉ: tổ 6, khu phố TC, phường P, TP B, tỉnh Đồng Nai.

(Bị hại có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 22 giờ ngày 02-01-2021, Trần Văn S đang ở nhà tại tổ 7, khu phố Tân Cang, phường P, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Gần nhà S có đám cưới, S cho rằng vì đám cưới mở nhạc lớn làm con của Sơn quấy khóc nên S bực tức đi ra cổng dùng gạch ném vỡ kính trước xe ô tô loại 16 chỗ (không rõ biển số, người điều khiển) đang đỗ gần đám cưới. Sau đó, S chạy vào nhà đóng cửa lại. Một số người dân thấy vậy đuổi theo S đến đứng trước cổng nhà Sơn. Sự việc được người dân báo cho bảo vệ tổ dân phố.

Nhận được tin báo, anh Phạm Lê H (sinh năm 1983 - ngụ tại tổ 6, khu phố Tân Cang, phường P, thành phố B, tỉnh Đồng Nai) cùng với anh Nguyễn Phúc T2, anh Nguyễn Công Thành (đều là Bảo vệ dân phố thuộc Ban bảo vệ dân phố phường P nhưng không thuộc ca trực) đã tự đến đứng ngoài đường nắm tình hình. Anh H gọi điện báo sự việc nêu trên cho Công an phường P đến giải quyết. Lúc này, S ở trong sân nhà lớn tiếng chửi đổng và thách thức. Thấy vậy anh H dùng điện thoại mở chế độ quay video ghi lại sự việc thì S cầm dao dài khoảng 40cm, cán bằng gỗ, đầu lưỡi vuông rộng khoảng 5cm mở cổng xông ra chém anh Hùng 01 (Một) nhát từ trên xuống. Anh H giơ tay trái lên đỡ nên lưỡi dao chém trúng vào cẳng tay trái anh Hùng gây thương tích. Sau đó, S đi vào nhà khóa cửa lại, anh H được mọi người đưa đến Bệnh viện Đa khoa Đồng Nai cấp cứu và điều trị thương tích.

Vào ngày 04-01-2021, anh Phạm Lê H có đơn yêu cầu khởi tố vụ án hình sự.

Quá trình điều tra, Trần Văn S khai nhận hành vi phạm tội như trên.

Vật chứng vụ án:

- 01 (Một) dao dài khoảng 40cm, cán bằng gỗ, đầu lưỡi dao vuông rộng khoảng 5cm, màu đen Trần Văn S sử dụng gây án.

Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 0171/TgT/2021 ngày 05-3- 2021 của Giám định viên Trung tâm pháp y tỉnh Đồng Nai, kết luận thương tích của anh Phạm Lê H như sau:

Dấu hiệu chính qua giám định:

- Tổn thương mẻ khuyết vỏ xương trụ bên trái (Áp dụng Chương 7, mục III.4.4). Tỷ lệ 03%.

- Sẹo vết thương cẳng tay trái kích thước 04x0,2cm (Áp dụng Chương 8, mục I.1). Tỷ lệ 01%.

- Sẹo mổ cẳng tay trái kích thước 3,5x0,2cm (Áp dụng Chương 8, mục I.1). Tỷ lệ 01%.

- Sẹo mổ cẳng tay trái kích thước 2,5x0,2cm (Áp dụng Chương 8, mục I.1). Tỷ lệ 01%.

Căn cứ Thông tư số 22/2019/TT-BYT ngày 28-8-2019 của Bộ trưởng Bộ Y tế Quy định tỷ lệ tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định Pháp y, tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định của nạn nhân Phạm Lê H áp dụng theo phương pháp cộng tại thông tư là 06% (Sáu phần trăm).

Bản kết luận giám định pháp y trên hồ sơ số 0279/VG/2021 ngày 14-4-2021 của Giám định viên Trung tâm pháp y tỉnh Đồng Nai:

- Vết thương nằm ngang mặt sau 1/3 dưới cẳng tay trái có đặc điểm bên ngoài rách da cơ bờ mép gọn bên dưới tổn thương mẻ xương trụ cẳng tay trái hiện để lại sẹo kích thước 04x0,2cm. Tổn thương do vật sắc tác động lực tương đối mạnh vào vùng từ sau ra trước gây nên. Hoặc theo phản xạ sinh học tự nhiên khi bị đánh nạn nhân sẽ đưa tay lên đỡ, thì tổn thương này phù hợp với vật sắc tác động theo hướng từ trên xuống dưới vào mặt sau 1/3 dưới cẳng tay trái. Phần cạnh sắc của lưỡi dao mà Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B gửi đến giám định có thể gây ra tổn thương này.

Về trách nhiệm dân sự: Anh Phạm Lê H yêu cầu bị cáo Trần Văn S bồi thường chi phí điều trị và các khoản thiệt hại khác với tổng số tiền là 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng). Bị cáo S chưa bồi thường cho anh H.

Tại cáo trạng số: 582/CT/VKS-HS ngày 18 tháng 11 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố Trần Văn S phạm tội “Cố ý gây thương tích”, theo quy định điểm a, i khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B trong phần tranh luận vẫn giữ nguyên quyết định truy tố, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a, i khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo với mức án từ 08 (tám) tháng đến 12 (mười hai) tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 48 Bộ luật Hình sự, Điều 584, 585 và 590 Bộ luật Dân sự đề nghị Tòa án nhân dân thành phố B tuyên: Buộc bị cáo Trần Văn S bồi thường chi phí điều trị thương tích và các chi phí khác cho bị hại anh Phạm Lê H.

Bị cáo không có ý kiến bào chữa, tranh luận gì đối với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát cũng như không nói lời sau cùng trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Đối với hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố B, Điều tra viên; Viện Kiểm sát nhân dân thành phố B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp, nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

[2] Về nội dung vụ án, tội danh và áp dụng điều luật:

Xét thấy, tại phiên tòa bị cáo S đã khai nhận: Vào khoảng 22 giờ 30 phút ngày 02-01-2021, tại tổ 7, khu phố Tân Cang, phường P, thành phố B, tỉnh Đồng Nai, Trần Văn S cho rằng nhà hàng xóm có đám cưới, mở nhạc to làm con của Sơn khóc nên S dùng gạch ném vỡ 01 (Một) kính xe ô tô loại 16 chỗ (không rõ biển số, người điều khiển) đang đỗ gần đám cưới. Anh Phạm Lê H là bảo vệ dân phố nhận được tin báo đến nắm tình hình và dùng điện thoại di động quay video ghi nhận sự việc thì bị S dùng dao dài khoảng 40cm, cán bằng gỗ, đầu lưỡi dao vuông rộng khoảng 5cm chém 01 (một) nhát trúng cẳng tay trái anh H gây thương tích với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 06% (Sáu phần trăm). Vào ngày 04-01-2021, anh Phạm Lê H có đơn yêu cầu khởi tố vụ án hình sự. Như vậy, có đủ căn cứ xác định hành vi của Trần Văn S đã phạm tội: “Cố ý gây thương tích”, theo quy định tại điểm a, i khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[3] Về tính chất mức độ hành vi phạm tội: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của công dân được pháp luật bảo vệ, làm mất an ninh trật tự, gây bất bình cho quần chúng nhân dân tại địa phương. Bị cáo là người đã trưởng thành nên có đủ nhận biết hành vi vi phạm pháp luật, không vì lý do hay mâu thuẫn gì mà chỉ vì tức giận nhất thời, không kìm chế được bản thân đã dùng dao chém 01 (một) nhát trúng cẳng tay trái anh H gây thương tích với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 06% (Sáu phần trăm). Hiện nay, bị cáo cũng chưa bồi thường được một khoản tiền nào để bù đắp một phần thiệt hại cho người bị hại. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, tuy đã được toà án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng bị cáo S không chấp hành, có thái độ chống đối và coi thường pháp luật. Do đó, cần thiết xử phạt bị cáo một mức án nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm răn đe, cải tạo giáo dục và phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về nhân thân: Ngày 31-3-1998, bị Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai xử phạt tù 12 tháng về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản của công dân”. Bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 04-01-1999.

[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6] Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy: 01 (Một) dao dài khoảng 40cm, cán bằng gỗ, đầu lưỡi dao vuông rộng khoảng 5cm, màu đen do bị cáo Trần Văn S dùng làm hung khí thực hiện tội phạm.

[ 7] Về bồi thường dân sự: Anh Phạm Lê H yêu cầu bị cáo Trần Văn S bồi thường chi phí điều trị và các khoản thiệt hại khác với tổng số tiền là 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng) bao gồm: Thủ thuật phẫu thuật: 137.000đ, tiền thuốc:

871.090đ, khám bệnh: 98.000đ, viện phí nội trú: 17.528.341đ, tiền phục hồi sức khoẻ: 1.365.569đ. Tại phiên toà bị cáo đồng ý bồi thường cho anh Hùng số tiền 20.000.000đ (hai mươi triệu đồng). Nhận thấy việc bị cáo đồng ý bồi thường cho bị hại là hoàn toàn tự nguyện nên áp dụng điều 48 Bộ luật hình sự; các Điều 585, 590 Bộ luật dân sự, Hội đồng xét xử ghi nhận.

[8] Đối với hành vi Trần Văn S ném vỡ kính xe ô tô loại 16 chỗ (không rõ biển số, người điều khiển). Sau khi bị ném vỡ kính xe, người lái xe đã điều khiển xe đi nơi khác mà không trình báo Cơ quan Công an. Hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch người bị hại và giá trị thiệt hại do S gây ra nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B tiếp tục xác minh làm rõ, xử lý sau.

[9] Quá trình điều tra xác định: Vào ngày 02-01-2021, anh Phạm Lê H không có lịch trực và không được phân công giải quyết vụ việc, khi nhận được thông tin đã tự đến dùng điện thoại quay video. Do đó không đủ cơ sở để áp dụng tình tiết “Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân” theo quy định tại điểm k khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự đối với Trần Văn S.

[10] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

[11] Đối với phần trình bày và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B tại phiên tòa, xét thấy phù hợp với những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử sẽ xem xét khi quyết định về vụ án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trần Văn S phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

2. Về hình phạt: - Áp dụng điểm a, i khoản 1 Điều 134; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Trần Văn S 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 08/02/2022.

Về trách nhiệm bồi thường dân sự: Áp dụng các điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 584, 585 và 590 Bộ luật Dân sự: Buộc bị cáo Trần Văn S có nghĩa vụ bồi thường cho bị hại anh Phạm Lê H số tiền 20.000.000đ (hai mươi triệu đồng).

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền hàng tháng bên thi hành án phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015

Quyết định này được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự Tịch thu tiêu hủy: 01 (Một) dao dài khoảng 40cm, cán bằng gỗ, đầu lưỡi dao vuông rộng khoảng 5cm, màu đen do bị cáo Trần Văn Sơn dùng làm hung khí thực hiện tội phạm.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 13/12/2021 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố B).

4. Về án phí hình sự sơ thẩm và dân sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 1.000.000đ (một triệu đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt tại phiên toà được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

199
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 105/2022/HS-ST

Số hiệu:105/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về