Bản án về tội chứa chấp sử dụng trái phép chất ma tuý số 71/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 71/2021/HS-ST NGÀY 25/09/2021 VỀ TỘI CHỨA CHẤP SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 25 tháng 09 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Bắc Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 58/2021/TLST-HS ngày 26 tháng 07 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 59/2021/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 08 năm 2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 38/2021/QĐST-HS ngày 25/08/2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn N, sinh năm 1993; HKTT: thôn N1, xã L, huyện T, tỉnh Bắc Ninh. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 09/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn T1 và bà Nguyễn Thị L1; Vợ, con: chưa; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 07/03/2021, hiện đang bị tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh, có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Nguyễn Đình M, sinh năm 1994; Trú tại: xóm S, xã Đ, huyện G, tỉnh Bắc Ninh (vắng mặt).

2. Anh Nguyễn Viết T2, sinh năm 1990; Trú tại: xóm N3, xã Đ, huyện G, tỉnh Bắc Ninh (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

1 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 22 giờ ngày 06/3/2021, Công an huyện T phối hợp cùng Công an xã L trong lúc tuần tra đã phát hiện và bắt quả tang tại phòng ngủ nhà của Nguyễn Văn N, sinh năm 1993, trú tại thôn: N1, xã L, huyện T, tỉnh Bắc Ninh gồm có N, Nguyễn Đình M, sinh năm 1994, trú tại: Xóm S, xã Đ, huyện G, tỉnh Bắc Ninh và Nguyễn Viết T2, sinh năm 1990, trú tại: Xóm N3, xã Đ, huyện G, tỉnh Bắc Ninh đang cùng nhau sử dụng trái phép chất ma túy. Thu giữ tại mặt chiếu ở giường trong phòng ngủ nhà N các vật chứng gồm:

+ 01 chai nhựa màu trắng có đựng nước bên trong, trên nắp chai có gắn hai ống hút nhựa hình tròn màu hồng, tím, xanh, trong đó một đầu ống hút nhựa có cuốn giấy bạc, 01 bật lửa ga.

+ 01 mảnh giấy bạc, kích thước (10x02)cm, có bám dính chất bẩn màu nâu trên bề mặt (nghi là ma túy), được niêm phong trong phong bì thư ký hiệu M1.

+ 01 túi nilon nhỏ màu trắng, bên trong có chứa 01 viên nén hình tròn màu hồng và các chất tinh thể màu trắng (nghi là ma túy), được niêm phong trong phong bì thư ký hiệu M2.

+ 01 túi nilon nhỏ màu trắng, viền màu đỏ bên trong có chứa 02 viên nén hình tròn màu hồng và các chất tinh thể màu trắng (nghi là ma túy), được niêm phong trong phong bì thư ký hiệu M3.

Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng theo quy định. Sau đó, tổ công tác đưa các đối tượng nêu trên cùng vật chứng về bàn giao cho Cơ quan CSĐT Công an huyện T để giải quyết theo thẩm quyền.

Ngày 07/03/2021, Cơ quan CSĐT Công an huyện T ra Quyết định trưng cầu giám định số: 43/QĐTCGĐ trưng cầu Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh giám định các vật chứng được niêm phong trong 03 phong bì thư ký hiện M1, M2, M3.

Tại bản Kết luận giám định số 251/KLGĐMT–PC09 ngày 08/3/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Bắc Ninh kết luận:

+ Chất màu nâu trên bề mặt mảnh giấy bạc bên trong phong bì thư ký hiệu M1, có khối lượng 0,0041 gam; Là ma túy; Loại ma túy Methamphetamine.

+ 01 viên nén hình tròn màu hồng bên trong phong bì thư ký hiệu M2 có khối lượng 0,0110 gam; Là ma túy; Loại ma túy: Methamphetamine.

2 + Chất tinh thể màu trắng bên trong phong bì thư ký hiệu M2 có khối lượng 0,0106 gam; là ma túy; loại ma túy: Methamphetamine.

+ 02 viên nén hình tròn màu hồng bên trong phong bì thư ký hiện M3 có khối lượng 0,0388gam; Là ma túy; Loại ma túy: Methamphetamine.

+ Chất tinh thể màu trắng bên trong phong bì thư ký hiệu M3 có khối lượng 0,0278 gam; Là ma túy; Loại ma túy: Methamphetamine.

Methamphetamine là chất ma túy được quy định tại Nghị định 73/2018/NĐ-CP, ngày 15/5/2018 của Chính Phủ ban hành các danh mục chất ma túy và tiền chất./.

Tại Cơ quan CSĐT Công an huyện T, Nguyễn Văn N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, cụ thể: Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 06/3/2021, N đang ở nhà một mình thì có Nguyễn Viết T2 (bạn quen biết xã hội) đi cùng với Nguyễn Đình M (bạn của T) đến chơi. Sau đó, T đi vào trong phòng ngủ của N, N đứng ở cửa nhà, còn M vẫn đứng ở bên ngoài nhà. Lúc này, N có nhìn thấy T lấy 02 túi nilon màu trắng (trong đó 01 túi có viền đỏ) bên trong mỗi túi có 02 viên nén hình tròn màu hồng là ma túy ngựa và các chất tinh thể màu trắng là ma túy đá từ trong vỏ nắp điều khiển (dạng điều khiển của cửa cuốn) mà T đang cầm trên tay rồi để trên giường trong phòng ngủ của N và bảo N cho chơi nhờ (tức sử dụng ma túy). N đồng ý và lấy 01chai nhựa màu trắng, có đựng nước bên trong, trên nắp chai có gắn hai ống hút nhựa màu hồng, tím, xanh (trong đó 01 đầu ống hút nhựa có cuốn giấy bạc) và 01 bật lửa ga có sẵn ở trong nhà của N ra để làm công cụ sử dụng ma túy. Một lúc sau thì M đi vào trong phòng ngủ của N. Sau đó, N đi ra đóng cửa nhà rồi quay lại phòng ngủ thì thấy T đã để 01 viên nén hình tròn màu hồng và một ít hạt tinh thể màu trắng ở trên mặt 01 tờ giấy bạc được để trên giường. Sau đó, N, T và M cùng nhau sử dụng ma túy. Đến khoảng 22 giờ cùng ngày, khi N, T và M đang sử dụng ma túy thì bị tổ công tác Công an huyện T, phối hợp với Công an xã L phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng như đã nêu trên. N khai nhận: Các chất bám dính màu nâu trên bề mặt 01 mảnh giấy bạc là ma túy ngựa và ma túy đá còn lại sau khi N cùng T và M đã đốt nóng để sử dụng. Còn 01 túi nilon nhỏ màu trắng, bên trong có chứa 01 viên nén hình tròn màu hồng cùng các chất tinh thể màu trắng và 01 túi nilon nhỏ màu trắng, có viền màu đỏ bên trong có chứa hai viên nén hình tròn màu hồng cùng các chất tinh thể màu trắng đều là ma túy đá và ma túy ngựa của T. Trước đó, T có nói với N: Do M là bạn bè quen biết của T nên 3 T ngại đặt vấn đề bán ma túy cho M nên T đã nhờ N bán hộ T số ma túy còn lại nêu trên cho M với giá 700.000 đồng nhưng N chưa kịp đặt vấn đề bán cho M. Ngoài ra, N còn trình bày: Khi T để ma túy trên giường trong phòng ngủ của N thì chỉ có N và T biết. Ngoài ra không có ai khác biết. Ngôi nhà N đang ở và cho M, T sử dụng chất ma túy vào ngày 06/3/2021 là nhà của bố mẹ đẻ của N. Bố mẹ N đã chết. Chị gái và em gái của N đã đi lấy chồng và ở riêng. Vì vậy, chỉ có một mình N quản lý và sử dụng ngôi nhà.

Nguyễn Viết T2 và Nguyễn Đình M đều khai nhận như sau: Khoảng 21 giờ 30 phút, ngày 06/3/2021, T rủ M đến nhà N chơi, thì gặp N đang ở nhà một mình. Sau đó, N rủ T và M vào phòng ngủ của N ngồi chơi. Tại đây, T và M thấy N để 02 túi nilon nhỏ màu trắng (trong đó 01 túi nilon có viền màu đỏ), bên trong mỗi túi nilon có 02 viên hình tròn màu hồng là ma túy ngựa và các chất tinh thể màu trắng là ma túy đá đang cầm trên tay phải đặt trên giường trong phòng ngủ của N, rồi rủ T và M sử dụng chất ma túy. T và M đồng ý. Sau đó, N lấy dụng cụ sử dụng ma túy gồm: 01 chai nhựa có đặc điểm như N đã trình bày ở trên, 01 tờ giấy bạc và 01 bật lửa ga để trên giường. Đồng thời, N lấy 01 viên nén hình tròn màu hồng và một ít chất tinh thể màu trắng ở trong 01 túi nilon màu trắng để trên mặt tờ giấy bạc rồi dùng bật lửa ga đốt dưới tờ giấy bạc để N, T và M cùng nhau sử dụng chất ma túy. Đến khoảng 22 giờ cùng ngày, khi N, T và M đang sử dụng chất ma túy thì bị Công an phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng như đã nêu trên. Ngoài ra, T và M còn khai nhận: T không bán ma túy và không nhờ N bán hộ ma túy cho M. M không hỏi mua ma túy của T và N không đặt vấn đề gì với M về việc bán ma túy cho M.

Từ những tình tiết nêu trên, Cáo trạng số 61/CT-VKSTT ngày 23/07/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T truy tố Nguyễn Văn N về tội “Chứa chấp sử dụng trái phép chất ma tuý” theo điểm d khoản 2 Điều 256 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, bị cáo khai nhận về hành vi của bản thân như sau: Do quen biết nên vào khoảng 21 giờ 30 phút ngày 06/3/2021, N đã đồng ý cho Nguyễn Đình M và Nguyễn Viết T2 sử dụng trái phép chất ma túy tại phòng ngủ của mình, N cũng sử dụng ma túy cùng. Đến 22 giờ cùng ngày, khi N, M và T đang cùng nhau sử dụng trái phép chất ma túy thì bị Công an phát hiện, bắt quả tang. Nguồn gốc số ma túy là do T mang đến, 4 dụng cụ sử dụng ma túy là của N. Ngoài số ma túy và dụng cụ sử dụng, Công an không thu giữ gì khác.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T thực hành quyền công tố tại phiên tòa đã đưa ra những chứng cứ, lý lẽ, kết luận Nguyễn Văn N phạm tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 256 Bộ luật Hình sự. Sau khi phân tích hành vi phạm tội, căn cứ vào nhân thân của bị cáo và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự đã đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn N phạm tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma tuý”.

- Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 256; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt Nguyễn Văn N từ 7 năm đến 7 năm 6 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 07/03/2021.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung.

- Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu huỷ: Mẫu vật còn lại sau giám định kèm theo kết luận giám định số 251/KLGĐMT-PC09 ngày 08/03/2021 đựng trong 01 phong bì có dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự; 01 chai nhựa màu trắng có đựng nước bên trong, trên nắp chai có gắn hai ống hút nhựa hình tròn màu hồng, tím, xanh, trong đó một đầu ống hút nhựa có cuốn giấy bạc, 01 bật lửa ga.

Bị cáo nhất trí với nội dung luận tội của đại diện Viện kiểm sát, không có ý kiến tranh luận.

Tại lời nói sau cùng, bị cáo xin được hưởng mức hình phạt nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang và vật chứng thu giữ. Căn cứ vào kết luận giám định và các tài liệu trong hồ sơ có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 06/3/2021, tại nhà của Nguyễn Văn N ở thôn N1, xã L, huyện T, tỉnh Bắc Ninh, bị cáo N đã cho Nguyễn Đình M và Nguyễn Viết T2 cùng với N sử dụng trái phép chất ma túy tại phòng ngủ của mình và bị Công an phát hiện, bắt quả tang. Vật chứng thu giữ là 0,0923 5 gam, là ma túy, loại ma túy Methamphetamine. Bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự nên hành vi nêu trên của Nguyễn Văn N đã phạm tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy” với tình tiết “đối với 02 người trở lên” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 256 Bộ luật hình sự.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bởi đã xâm phạm các quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma tuý, gây tác hại lớn về nhiều mặt cho xã hội, trực tiếp làm gia tăng tệ nạn ma túy, gián tiếp làm gia tăng các tệ nạn xã hội khác. Bị cáo hiểu rõ được tác hại và sự nguy hiểm về hành vi của bản thân nhưng vẫn cố ý thực hiện do vậy cần xử lý kịp thời và nghiêm khắc để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Xét về nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, là đối tượng sử dụng ma túy. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn, hối cải do vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Căn cứ vào tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, căn cứ nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của người phạm tội, Hội đồng xét xử thấy bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng nên cần thiết phải áp dụng hình phạt tù tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích. Mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng với bị cáo là phù hợp. Bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, phạm tội không nhằm mục đích thu lời nên không áp dụng hình phạt bổ sung.

Đối với việc Nguyễn Văn N khai Nguyễn Viết T2 là người mang ma túy đến nhà N để sử dụng và nhờ N bán ma túy cho Nguyễn Đình M. Nhưng quá trình điều tra chưa đủ cơ sở nên không xem xét xử lý. Đối với nguồn gốc số ma túy thu giữ tại nhà của N, Tòa án đã có Thông báo số 16/TB- TA ngày 27/07/2021 yêu cầu Viện kiểm sát nhân dân huyện T điều tra làm rõ về nguồn gốc số ma túy nhưng do các đối tượng Nguyễn Viết T2 và Nguyễn Đình M hiện không có mặt tại địa phương, chưa có đủ cơ sở xử lý nên cần tách các tài liệu liên quan đến nguồn gốc số ma túy để tiếp tục điều tra làm rõ, khi nào có đủ cơ sở sẽ xem xét xử lý sau.

Đối với việc Nguyễn Đình M và Nguyễn Viết T2 có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy tại nhà N, Công an huyện T đã ra Quyết định xử phạt vi 6 phạm hành chính số 129, 130 ngày 02/7/2021 đối với M và T về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 21 Nghị định số 167 ngày 12/11/2013 là phù hợp.

Về vật chứng: Đối với số ma túy hoàn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì thư là vật cấm lưu hành và các vật chứng là công cụ phạm tội không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

Án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. Từ những nhận định trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 256; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106, 136, 329, 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án; xử:

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn N phạm tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma tuý”. Xử phạt Nguyễn Văn N 7 năm 6 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 07/03/2021.

Tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo việc thi hành án.

2. Về vật chứng: Tịch thu tiêu huỷ: Mẫu vật còn lại sau giám định kèm theo kết luận giám định số 251/KLGĐMT-PC09 ngày 08/03/2021 đựng trong 01 phong bì có dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự; 01 chai nhựa màu trắng có đựng nước bên trong, trên nắp chai có gắn hai ống hút nhựa hình tròn màu hồng, tím, xanh, trong đó một đầu ống hút nhựa có cuốn giấy bạc, 01 bật lửa ga.

3. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

19
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội chứa chấp sử dụng trái phép chất ma tuý số 71/2021/HS-ST

Số hiệu:71/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuận Thành - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về