Bản án về tội chống người thi hành công vụ số 382/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 382/2022/HS-PT NGÀY 09/09/2022 VỀ TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ

Ngày 09/9/2022, tại Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 238/2022/TLPT-HS, ngày 09/6/2022 đối với bị cáo Liêu Tuấn T và đồng phạm do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 43/2022/HS-ST, ngày 04/4/2022 của Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh.

Các bị cáo kháng cáo:

1. Liêu Tuấn T, sinh năm 1971 tại Tiền Giang; Thường trú: 580/14A P, Phường 4, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Sửa xe; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Liêu Tuấn K (chết) và bà Đỗ Thị G (chết); hoàn cảnh gia đình: Có vợ là Huỳnh Thị Cẩm H và 02 con (lớn sinh năm 1994, nhỏ sinh năm 1998); Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo tại ngoại (Vắng mặt).

2. Huỳnh Thị Cẩm H, sinh năm 1974 tại An Giang; Thường trú: 580/14A P, Phường 4, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ học vấn: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Huỳnh Huệ M và bà Nguyễn Thị H; hoàn cảnh gia đình: Có chồng là Liêu Tuấn T và 02 con (lớn sinh năm 1994, nhỏ sinh năm 1998); Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo tại ngoại (Vắng mặt).

3. Liêu Thanh TH, sinh năm 1998 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Thường trú:580/14A P, Phường 4, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Kỹ thuật viên xét nghiệm; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Liêu Tuấn T và bà Huỳnh Thị Cẩm H; hoàn cảnh gia đình: Chưa có chồng, con; Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo tại ngoại (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào ngày 24/9/2021, Trung tâm y tế Phường 4, Quận 8 phân công anh Dương Thái N (là bác sĩ được Ủy ban nhân dân Quận 8 tiếp nhận, phân công về Phường 4, Quận 8 để tăng cường chống dịch), anh Ngô Quốc P (tình nguyện viên chống dịch thuộc Ủy ban nhân dân Phường 4, Quận 8), anh Nguyễn Hoàng N (tình nguyện viên chống dịch thuộc Ủy ban nhân dân Phường 4, Quận 8), làm nhiệm vụ lấy mẫu xét nghiệm COVID-19 tầm soát trong cộng đồng tại khu phố 1 (Tổ 9, 12, 13), Phường 4, Quận 8.

Khoảng 10 giờ 30 phút cùng ngày, tại trước số 618/18 P, Phường 4, Quận 8, các thành viên tổ xét nghiệm COVID-19 nói trên và Tổ trưởng tổ dân phố 9 là bà Nguyễn Thị Hồng M đang làm nhiệm vụ được phân công thì Liêu Tuấn T đi đến điểm xét nghiệm yêu cầu được mang bộ kit test về nhà tự xét nghiệm với lý do là tổ xét nghiệm COVID-19 không đảm bảo an toàn (như không xịt khuẩn, không thay găng tay...). Thấy vậy, anh P từ chối phát bộ kit test cho T (do việc tự lấy mẫu có thể không đảm bảo đúng thao tác, quy trình, ảnh hưởng đến kết quả), sự việc xảy ra dẫn đến hai bên phát sinh tranh cãi.

Khi anh P lấy xe gắn máy đi qua điểm xét nghiệm ở khu phố khác thì bị T nắm áo kéo lại đòi xem bảng tên (mục đích để T phản ánh chính quyền việc anh P không cho tự test), khiến xe gắn máy của anh P ngã xuống đường. Anh P dùng tay đẩy T ra thì T tiếp tục dùng tay nắm lấy áo bảo hộ của anh P nên cả hai xảy ra xô xát. Cùng lúc, con gái T là Liêu Thanh TH và vợ T là Huỳnh Thị Cẩm H nhìn thấy sự việc nên chạy đến. Thảo đu vào người anh P còn T dùng tay đánh vào người anh P, kéo rách áo bảo hộ. Tiếp đó, Thảo dùng ghế nhựa màu đỏ đánh vào người anh N và hất bàn nhựa để dụng cụ xét nghiệm vào người anh P, còn Hương giằng co với anh N và dùng ghế đánh vào người anh P.

Hậu quả xảy ra làm cho áo bảo hộ, khẩu trang của anh P và anh N bị rách;

20 bộ xét nghiệm rớt xuống đất không còn sử dụng được. Sau đó, cả gia đình T bỏ vào nhà. Vụ việc được bà Minh trình báo, giao nộp chứng cứ cho Công an Phường 4, Quận 8 và chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 8 để điều tra, làm rõ.

Tại kết luận giám định pháp y về thương tích số 674/TgT.21 ngày 28/9/2021, Trung tâm pháp y Thành phố Hồ Chí Minh kết luận đối với anh Ngô Quốc P như sau: Chấn thương phần mềm khuỷu tay phải, hiện còn một vết sưng bầm mờ kích thước 1x1cm. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 0%.

Tại kết luận giám định pháp y về thương tích số 675/TgT.21 ngày 28/9/2021, Trung tâm pháp y Thành phố Hồ Chí Minh kết luận đối với anh Nguyễn Hoàng N như sau: Chấn thương mu bàn tay trái, hiện còn các vết xước da nông trên diện sung đỏ. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 01%.

Quá trình điều tra, Liêu Tuấn T, Huỳnh Thị Cẩm H và Liêu Thanh TH khai nhận toàn bộ hành vi dùng vũ lực cản trở tổ xét nghiệm COVID-19 thực hiện nhiệm vụ, công vụ. Lời khai của các bị cáo phù hợp với nhau và phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Các anh Dương Thái N, Ngô Quốc P, Nguyễn Hoàng N không có thương tích đáng kể nên không yêu cầu các bị cáo bồi thường thiệt hại về sức khỏe cũng như không có yêu cầu bồi thường đối với các tài sản bị hư hỏng.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 43/2022/HSST ngày 04/4/2022 của Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Tuyên bố các bị cáo Liêu Tuấn T, Liêu Thanh TH và Huỳnh Thị Cẩm H phạm tội “Chống người thi hành công vụ”.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 330; các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Liêu Tuấn T 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 330; các điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Huỳnh Thị Cẩm H 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 330; các điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Liêu Thanh TH 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.

Ngoài ra, bản án hình sự sơ thẩm còn tuyên về phần xử lý vật chứng, án phí, quyền và thời hạn kháng cáo của các bị cáo.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 14/4/2022, các bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, TH giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Các bị cáo Liêu Tuấn T, Huỳnh Thị Cẩm H vắng mặt tại phiên tòa và có đơn xin xét xử vắng mặt và vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh sau khi tóm tắt nội dung, phân tích tính chất vụ án, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, sửa bản án hình sự sơ thẩm và cho các bị cáo được hưởng án treo.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà phúc thẩm; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, các bị cáo,

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Đánh giá về hành vi của bị cáo:

Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với lời khai của các bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm, lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra và phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo về tội “Chống người thi hành công vụ” theo khoản 1 Điều 330 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có cơ sở, đúng người, đúng tội, không oan sai.

[2] Về sự vắng mặt của các bị cáo Liêu Tuấn T, Huỳnh Thị Cẩm H tại phiên tòa:

Các bị cáo Liêu Tuấn T, Huỳnh Thị Cẩm H đã được tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử và giấy triệu tập nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ Điều 290 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các T, Hương.

[2] Về kháng cáo của các bị cáo và quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm:

Xét kháng cáo của các bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy đơn kháng cáo của các bị cáo nằm trong thời hạn luật định là hợp lệ.

Các bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo. Hội đồng xét xử xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đầy đủ tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo như thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, các bị cáo có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên đã áp dụng cho các bị cáo tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo Liêu Tuấn T được do bị bệnh nặng đang điều trị, tình trạng sức khỏe yếu nên được áp dụng thêm khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Từ đó, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Liêu Tuấn T 06 tháng tù, xử phạt bị cáo Huỳnh Thị Cẩm H 06 tháng tù, xử phạt bị cáo Liêu Thanh TH 09 tháng tù.

Tại phiên tòa phúc thẩm, Hội đồng xét xử xét thấy T sức khỏe yếu, trước khi xét xử bị bệnh tai biến, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Nguyễn Hoàng N cũng có đơn bãi nại cho T, các bị cáo phạm tội lần đầu, nhân thân tốt, đều là người trong gia đình có hoàn cảnh khó khăn nên được xem xét áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. T, Hương cũng có nơi cư trú ổn định, xét không cần thiết áp dụng hình phạt tù mà cho các T, Hương được hưởng án treo cũng đủ tác dụng giáo dục và phòng ngừa. Đối với bị cáo Liêu Thanh TH, hành vi phạm tội của bị cáo có phần quyết liệt hơn nên không cho bị cáo được hưởng án treo như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử xét thấy mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm tuyên đối với bị cáo là có phần nghiêm khắc nên giảm một phần hình phạt cho bị cáo Liêu Thanh TH.

Từ đó, chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Liêu Tuấn T, Huỳnh Thị Cẩm H, chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Liêu Thanh TH và sửa bản án hình sự sơ thẩm.

[3] Về án phí hình sự phúc thẩm:

Các bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Về các vấn đề khác:

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Liêu Tuấn T, Huỳnh Thị Cẩm H, chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Liêu Thanh TH và sửa bản án hình sự sơ thẩm.

[2] Căn cứ vào khoản 1 Điều 330; các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51;

Điều 58; Điều 65 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Liêu Tuấn T 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Chống người thi hành công vụ”. Thời gian thử thách là 12 (mười hai) tháng tính từ ngày tuyên án phúc thẩm.

[3] Căn cứ vào khoản 1 Điều 330; các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51;

Điều 58; Điều 65 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Huỳnh Thị Cẩm H 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Chống người thi hành công vụ”. Thời gian thử thách là 12 (mười hai) tháng tính từ ngày tuyên án phúc thẩm.

Giao các bị cáo Liêu Tuấn T, Huỳnh Thị Cẩm H về Ủy ban nhân dân Phường 4, Quận 8 để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình các bị cáo Liêu Tuấn T, Huỳnh Thị Cẩm H có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Trong trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu các bị cáo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc các bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật hình sự năm 2015.

[4] Căn cứ vào khoản 1 Điều 330; các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Liêu Thanh TH 06 (sáu) tháng tù về tội “Chống người thi hành công vụ”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.

[5] Về án phí: Các bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[6] Về các vấn đề khác: Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không có kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

(Đã giải thích chế định án treo cho các bị cáo) 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

133
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội chống người thi hành công vụ số 382/2022/HS-PT

Số hiệu:382/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về