Bản án về tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự số 56/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 56/2023/HS-ST NGÀY 31/08/2023 VỀ TỘI CHO VAY LÃI NẶNG TRONG GIAO DỊCH DÂN SỰ

Ngày 31 tháng 8 năm 2023, tại Hội trường xét xử - Toà án nhân dân tỉnh H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 67/2023/TLST-HS ngày 27/7/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 64/2023/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 8 năm 2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Ngọc L, tên gọi khác: không; sinh ngày 26 tháng 6 năm 1975, tại H; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: tổ dân phố F, phường B, thành phố H, tỉnh H; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: 02/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; tham gia Đảng, đoàn thể: không; con ông: Nguyễn Trọng K (đã chết) và bà Lê Thị Q (đã chết); anh chị em ruột có 08 người, bị cáo là con thứ tám trong gia đình; vợ: Lê Thị T, sinh năm: 1976; con: có 01 con sinh năm: 2001; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: Ngày 12/3/2021, Nguyễn Ngọc L bị Công an xã B, huyện Đ, tỉnh H ra Quyết định xử phạt hành chính 1.500.000 đồng về hành vi đánh bạc. Ngày 15/3/2021, Nguyễn Ngọc L đã nộp tiền xử phạt. Bị tạm giữ từ ngày 14/5/2023 đến ngày 20/5/2023, bị khởi tố bị can, áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến nay tại phường B, thành phố H, tỉnh H. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Nguyễn Văn T1, sinh năm: 1979; địa chỉ: thôn Đ, xã C, huyện C, tỉnh H (Vắng mặt).

2. Anh Trần Văn P, sinh năm: 1992; địa chỉ: Chung cư C, đường H, phường T, thành phố H, tỉnh H (Vắng mặt).

3. Bà Lê Thị L1, sinh năm: 1974; địa chỉ: TDP C, phường T, thành phố H, tỉnh H. (Vắng mặt).

- Người làm chứng: Bà Lê Thị T, sinh năm: 1976; địa chỉ: TDP F, phường B, thành phố H, tỉnh H (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tháng 5/2012, Nguyễn Ngọc L (sinh năm 1975, trú tại: số nhà E, ngách B, ngõ B, đường X, thành phố H, tỉnh H) đăng ký hoạt động dịch vụ cầm đồ tại nhà riêng của L. Đến cuối năm 2018, do việc kinh doanh không hiệu quả nên Nguyễn Ngọc L tạm dừng dịch vụ cầm đồ, chuyển sang hoạt động cho vay tín chấp, người vay tiền đều là những người L có quen biết ở Thành phố H và vùng lân cận. Nguyễn Ngọc L tiến hành cho vay tự phát, không đăng ký kinh doanh hoạt động cho vay với các cơ quan chức năng. Khi có người liên hệ đặt vấn đề vay tiền, L sẽ tìm hiểu về khả năng tài chính của người đó để quyết định số tiền cho vay, mức lãi suất Nguyễn Ngọc L cho vay thường dao động từ 2.000 đồng/1.000.000 đồng/01 ngày đến 3.000 đồng/1.000.000 đồng/01 ngày. Để quản lý các khoản vay, Nguyễn Ngọc L in sẵn các giấy vay tiền hoặc hợp đồng cầm đồ để yêu cầu người vay khi vay tiền thì điền các nội dung như thời gian, họ và tên, số điện thoại, địa chỉ, số tiền vay... để đưa cho L. Nguyễn Ngọc L và người vay thống nhất lãi suất vay sẽ thỏa thuận ngoài chứ không ghi vào giấy vay tiền. Hàng tháng, người vay trả tiền lãi cho Nguyễn Ngọc L bằng cách đưa tiền mặt hoặc chuyển vào tài khoản số 0201000714xxx của Nguyễn Ngọc L mở tại ngân hàng V. Với thủ đoạn như trên, Nguyễn Ngọc L đã cho 02 người vay tiền, thu lãi suất vượt quá 05 lần mức lãi suất cao nhất mà Bộ luật Dân sự quy định, thu lợi bất chính số tiền là 206.463.014 đồng, gồm:

1. Anh Nguyễn Văn T1 (sinh năm 1979, trú tại: thôn Đ, xã C, huyện C, tỉnh H) có mối quan hệ quen biết với Nguyễn Ngọc L. Do cần tiền để giải quyết việc cá nhân nên anh Nguyễn Văn T1 đã hai lần vay tiền của Nguyễn Ngọc L, cụ thể như sau:

- Lần thứ nhất: Ngày 04/9/2020, anh Nguyễn Văn T1 liên hệ với Nguyễn Ngọc L đặt vấn đề vay số tiền 40.000.000 đồng, L đồng ý và hẹn anh T1 đến nhà L để làm thủ tục vay tiền. Tại đây, Nguyễn Ngọc L và anh T1 thống nhất mức lãi suất cho vay là 3.000 đồng/1.000.000 đồng/01 ngày, hàng tháng anh Nguyễn Văn T1 trả cho L số tiền lãi 3.600.000 đồng vào ngày 11 (quy ước mỗi tháng là 30 ngày). Tính từ ngày 04/9/2020 đến ngày 04/3/2023, anh Nguyễn Văn T1 đã thanh toán cho Nguyễn Ngọc L số tiền lãi là 111.600.000 đồng (tiền lãi của 930 ngày vay) tương ứng mức lãi suất 108%/năm. số tiền lãi suất tối đa theo quy định của Bộ luật dân sự mà Nguyễn Ngọc L được phép thu của anh Nguyễn Văn T1 là 40.000.000 đồng x 20%/365 ngày x 930 ngày = 20.383.562 đồng. Như vậy, số tiền lãi bất hợp pháp mà Nguyễn Ngọc L đã thu lợi bất chính từ việc cho anh Nguyễn Văn T1 vay tiền là 91.216.438 đồng.

- Lần thứ hai: Vào tháng 10/2021, anh Nguyễn Văn T1 liên hệ với Nguyễn Ngọc L đặt vấn đề vay thêm số tiền 10.000.000 đồng. L và anh T1 thống nhất mức lãi suất cho vay là 3.000 đồng/1.000.000 đồng/01 ngày, hàng tháng anh T1 trả cho L số tiền lãi là 900.000 đồng (quy ước mỗi tháng là 30 ngày). Nguyễn Ngọc L và anh Nguyễn Văn T1 thống nhất ghi thêm số tiền 10.000.000 đồng vay lần này vào giấy vay tiền cũ chứ không viết thêm giấy khác. Đối với khoản vay này, hàng tháng anh Nguyễn Văn T1 đều thanh toán đủ cho Nguyễn Ngọc L số tiền lãi 900.000 đồng, tính từ tháng 10/2021 đến tháng 03/2023 (18 tháng) anh Nguyễn Văn T1 đã thanh toán cho Nguyễn Ngọc L số tiền lãi là 16.200.000 đồng (tiền lãi của 540 ngày vay) tương ứng mức lãi suất 108%/năm. số tiền lãi suất tối đa theo quy định của Bộ luật dân sự mà Nguyễn Ngọc L được phép thu của anh Nguyễn Văn T1 là 10.000.000 đồng x 20%/365 ngày x 540 ngày = 2.958.904 đồng. Như vậy, số tiền lãi bất hợp pháp mà Nguyễn Ngọc L đã thu lợi bất chính từ việc cho anh Nguyễn Văn T1 vay tiền là 13.241.096 đồng.

Tổng cộng, anh Nguyễn Văn T1 đã thanh toán cho Nguyễn Ngọc L số tiền lãi của 02 khoản vay là 127.800.000 đồng. Nguyễn Ngọc L được phép thu số tiền lãi suất tối đa theo quy định của Bộ luật dân sự là 23.342.466 đồng, nên số tiền lãi bất hợp pháp Nguyễn Ngọc L đã thu lợi bất chính là 104.457.534 đồng. Đối với số tiền vay gốc 50.000.000 đồng, đến ngày 15/7/2023, anh Nguyễn Văn T1 đã trả lại cho Nguyễn Ngọc L. Nguyễn Ngọc L đã trả lại cho người liên quan Nguyễn Văn T1 số tiền lãi thu lãi bất hợp pháp 104.457.534 đồng. Anh Nguyễn Văn T1 đã nhận lại đầy đủ số tiền trên và có đơn xin giảm nhẹ cho bị cáo.

2. Anh Trần Văn P (sinh năm 1992, trú tại Tòa C2, Chung cư V, phường T, thành phố H, tỉnh H) có mối quan hệ quen biết với Nguyễn Ngọc L. Quá trình sinh sống, do cần tiền để kinh doanh, giải quyết công việc nên anh Trần Văn P đã bốn lần vay tiền của Nguyễn Ngọc L, cụ thể như sau:

- Lần thứ nhất: Ngày 25/11/2021, anh Trần Văn P liên hệ với Nguyễn Ngọc L đặt vấn đề vay số tiền 50.000.000 đồng, L đồng ý và hẹn anh P đến nhà L để làm thủ tục vay tiền. Tại đây, Nguyễn Ngọc L và anh P thống nhất mức lãi suất cho vay là 3.000 đồng/1.000.000 đồng/01 ngày, hàng tháng anh P trả cho L số tiền lãi 14.500.000 đồng vào ngày 25 (quy ước mỗi tháng là 30 ngày). Tính từ ngày 25/11/2021 cho đến ngày 25/02/2023, anh Trần Văn P đã thanh toán cho Nguyễn Ngọc L số tiền lãi 67.500.000 đồng (tiền lãi của 450 ngày vay) tương ứng mức lãi suất 108%/năm. Số tiền lãi suất tối đa theo quy định của Bộ luật dân sự mà Nguyễn Ngọc L được phép thu của anh Trần Văn P là 50.000.000 đồng x 20%/365 ngày x 450 ngày = 12.328.767 đồng. Như vậy, số tiền lãi bất hợp pháp mà Nguyễn Ngọc L đã thu lợi bất chính từ việc cho anh Trần Văn P vay tiền là 55.171.233 đồng.

- Lần thứ hai: Ngày 07/01/2022, anh Trần Văn P liên hệ với Nguyễn Ngọc L đặt vấn đề vay số tiền 30.000.000 đồng, L và anh P thống nhất mức lãi suất cho vay là 3.000 đồng/1.000.000 đồng/01 ngày, hàng tháng anh P thanh toán cho L số tiền lãi 2.700.000 đồng vào ngày 07 (quy ước mỗi tháng là 30 ngày). Tính từ ngày 07/01/2022 đến ngày 07/02/2023, anh Trần Văn P đã thanh toán cho Nguyễn Ngọc L số tiền lãi 35.100.000 đồng (tiền lãi của 390 ngày vay) tương ứng mức lãi suất 108%/năm. Số tiền lãi suất tối đa theo quy định của Bộ luật dân sự mà Nguyễn Ngọc L được phép thu của anh Trần Văn P là 30.000.000 đồng x 20%/365 ngày x 390 ngày = 6.410.959 đồng. Như vậy, số tiền lãi bất hợp pháp mà Nguyễn Ngọc L đã thu lợi bất chính từ việc cho anh Trần Văn P vay tiền là 28.689.041 đồng.

- Lần thứ ba: Ngày 04/6/2022, anh Trần Văn P liên hệ với Nguyễn Ngọc L đặt vấn đề vay số tiền 30.000.000 đồng, L và anh P thống nhất mức lãi suất cho vay là 3.000 đồng/1.000.000 đồng/01 ngày. Đối với khoản vay này, Nguyễn Ngọc L đưa cho anh P một hợp đồng cầm đồ để anh Phúc điền thông tin cầm cố chiếc xe ô tô Mazda CX5, BKS 38A-xxxxx của anh P cho L để vay tiền, L và anh P thống nhất chỉ ghi nội dung để làm tin chứ không cầm cố xe ô tô. Hàng tháng anh Trần Văn P thanh toán cho Nguyễn Ngọc L số tiền lãi 2.700.000 đồng (quy ước mỗi tháng là 30 ngày). Tính từ ngày 04/6/2022 đến ngày 04/02/2023, anh Trần Văn P đã thanh toán cho Nguyễn Ngọc L số tiền lãi 21.600.000 đồng (tiền lãi của 240 ngày vay) tương ứng mức lãi suất 108%/năm. Số tiền lãi suất tối đa theo quy định của Bộ luật dân sự mà Nguyễn Ngọc L được phép thu của anh Trần Văn P là 30.000.000 đồng x 20%/365 ngày x 240 ngày = 3.945.205 đồng. Như vậy, số tiền lãi bất hợp pháp mà Nguyễn Ngọc L đã thu lợi bất chính từ việc cho anh Trần Văn P vay tiền là 17.654.795 đồng.

- Lần thứ tư: Cách ngày vay tiền lần thứ ba khoảng 2 đến 3 ngày, anh Trần Văn P liên hệ với Nguyễn Ngọc L để vay tiếp số tiền 20.000.000 đồng, L và anh P thống nhất mức lãi suất cho vay là 3.000 đồng/1.000.000 đồng/01 ngày, số tiền này, anh Trần Văn P chỉ vay Nguyễn Ngọc L trong vòng 10 ngày, số tiền lãi anh Trần Văn P đã thanh toán cho Nguyễn Ngọc L là 600.000 đồng (tiền lãi của 10 ngày vay) tương ứng mức lãi suất 108%/năm. số tiền lãi suất tối đa theo quy định của Bộ luật dân sự mà Nguyễn Ngọc L được phép thu của anh Trần Văn P là 20.000.000 đồng x 20%/365 ngày x 10 ngày = 109.589 đồng. Như vậy, số tiền lãi bất hợp pháp mà Nguyễn Ngọc L đã thu lợi bất chính từ việc cho anh Trần Văn P vay tiền là 490.411 đông.

Tổng cộng, anh Trần Văn P đã thanh toán cho Nguyễn Ngọc L số tiền lãi của 04 khoản vay là 124.800.000 đồng. Nguyễn Ngọc L được phép thu số tiền lãi suất tối đa theo quy định của Bộ luật dân sự là 22.794.520 đồng, nên số tiền lãi bất hợp pháp Nguyễn Ngọc L đã thu lợi bất chính là 102.005.480 đồng. Đối với số tiền vay gốc 130.000.000 đồng, đến ngày 15/7/2023, anh Trần Văn P đã trả lại đầy đủ cho Nguyễn Ngọc L. Còn Nguyễn Ngọc L đã trả lại cho người liên quan Trần văn Phúc số tiền lãi thu bất hợp pháp là 102.005.480 đồng. Anh Trần Văn P đã nhận lại đầy đủ số tiền trên và có đơn xin giảm nhẹ cho bị cáo.

Ngoài hành vi phạm tội nêu trên, Nguyễn Ngọc L còn cho chị Lê Thị L1 (sinh năm 1974, trú tại tổ C, phường T, thành phố H, tỉnh H) vay tiền hai lần với mức lãi suất chưa vượt quá 05 lần mức lãi suất cao nhất mà Bộ luật Dân sự quy định: Vào ngày 25/6/2019 Nguyễn Ngọc L đã cho chị Lê Thị L1 vay số tiền 50.000.000 đồng; Ngày 03/10/2019, Nguyễn Ngọc L đã cho chị Lê Thị L1 vay số tiền 20.000.000 đồng, với mức lãi suất 2.000 đồng/1.000.000 đồng/01 ngày, thống nhất trả lãi theo tháng (quy ước mỗi tháng có 30 ngày) tương ứng 72%/năm (cao gấp 3,6 lần so với mức lãi suất cho vay cao nhất trong giao dịch dân sự). Chị Lê Thị L1 đã thanh toán cho Nguyễn Ngọc L số tiền lãi của 02 khoản vay là 138.000.000 đồng. Đến tháng 03/2022, do chị Lê Thị L1 gặp khó khăn về kinh tế nên Nguyễn Ngọc L không thu thêm tiền lãi của chị L1.

Ngày 13/5/2023, Nguyễn Ngọc L đã đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh H đầu thú về hành vi phạm tội của mình. Trong quá trình chuẩn bị xét xử bị cáo đã tự nguyện nộp tại cục Thi hành án dân sự toàn bộ số tiền là công cụ, phương tiện phạm tội gồm tiền gốc 180.000.000 đồng đã sử dụng cho T1, P vay và 46.136.986 đồng tiền lãi chưa vượt quá 20% do T1 phúc trả cho bị cáo.

Vật chứng Cơ quan điều tra đã thu giữ:

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus, màu đen, số Sê -ri: F2LSFPNCHG04, gắn thẻ sim số thuê bao 0912.591.xxx, số S sim: 89840200011126358xxx, máy đã qua sử dụng (thu của Nguyễn Ngọc L).

- 01 tờ giấy vay tiền đề ngày 04/9/2020 thể hiện anh Nguyễn Văn T1, số điện thoại 0941.597.xxx, địa chỉ: xã C, huyện C, tỉnh H vay tiền của anh Nguyễn Ngọc L.

- 02 giấy vay tiền đề ngày 07/01/2021 và ngày 25/11/2021 cùng với 01 hợp đồng cầm đồ đề ngày 04/6/2022 thể hiện anh Trần Văn P, số điện thoại 0915.749.xxx, địa chỉ: phường T, thành phố H là người vay tiền, cầm cố tài sản của anh Nguyễn Ngọc L.

- 02 giấy vay tiền đề ngày 25/6/2019 và ngày 03/10/2019 thể hiện chị Lê Thị L1, số điện thoại 0916.816.788, địa chỉ: Tổ C, phường T, thành phố H, tỉnh H là người vay tiền của anh Nguyễn Ngọc L.

- 01 giấy chứng nhận đủ điều kiện về ANTT để làm ngành, nghề kinh doanh có điều kiện số 16 ngày 03/5/2012 của Công an thành phố H, chứng nhận Nguyễn Ngọc L đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ cầm đồ.

- 01 Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hộ cá thể số 28.A.803.247 của Ủy ban nhân dân Thành phố H cấp ngày 28/5/2012, mang tên Nguyễn Ngọc L.

- 01 bản sao kê tài khoản ngân hàng V, số tài khoản 0201000714xxx, chủ tài khoản Nguyễn Ngọc L.

Đối với vật chứng 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus được chuyển đến Cục thi hành án dân sự tỉnh H để xử lý theo quy định của pháp luật; Các vật chứng còn lại được Cơ quan điều tra thống kê bút lục đưa vào hồ sơ vụ án.

Tại bản Kết luận giám định số 638 ngày 30/6/2023 của Phòng K1 Công an tỉnh H, kết luận: Chữ viết, chữ ký trên mẫu cần giám định ký hiệu A1 so với chữ viết, chữ ký của anh Nguyễn Văn T1 trên mẫu so sánh ký hiệu M1 là do cùng một người ký và viết ra; Chữ viết, chữ ký trên mẫu cần giám định ký hiệu từ A2 đến A4 so với chữ viết, chữ ký của anh Trần Văn P trên mẫu so sánh ký hiệu M2 là do cùng một người ký và viết ra.

Cáo trạng số 72/CT-VKS-P1 ngày 25/7/2023 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh H truy tố bị cáo Nguyễn Ngọc L về tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự” theo quy định tại khoản 2 Điều 201 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh H vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đã đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 201; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65; Khoản 2, 3 Điều 35 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc L từ 09 -12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 18-24 tháng; phạt bổ sung bằng tiền từ 40.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng Về biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu toàn bộ số tiền là công cụ phương tiện phạm tội mà bị cáo đã giao nộp, tịch thu hóa giá sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus đã thu giữ của bị cáo.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát. Bị cáo đã nhận thức rõ sai phạm ăn năn hối cải, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Vnh hợp pháp của quyết định và hành vi của các cơ quan và những người tiến hành tố tụng: Trong quá trình điều tra, truy tố Cơ quan điều tra Công an tỉnh H, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh H, Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án không ai có ý kiến hoặc khiếu nại hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về t tụng: Tại phiên toà, những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Văn T1, anh Trần Văn P và bà Lê Thị L1 đã được Toà án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do, tuy nhiên xét thấy việc vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án nên căn cứ Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử quyết định vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[3]. Về hành vi phạm tội: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai nhận, thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng truy tố. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và những người tham gia tố tụng khác, vật chứng thu giữ, cùng các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án nên có đủ căn cứ xác định: Để có tiền chi tiêu cá nhân, từ khoảng tháng 9/2020 đến tháng 03/2023, Nguyễn Ngọc L đã có hành vi cho anh Nguyễn Văn T1 và Trần Văn P vay tiền với lãi suất 3000 đồng/triệu/ngày, tương ứng 108%/năm, cao gấp 5,4 lần so với mức lãi suất cho vay tối đa (20%/năm) trong giao dịch dân sự. Trong đó, Nguyễn Ngọc L đã cho anh Nguyễn Văn T1 vay tiền 02 lần với tổng số tiền 50.000.000 đồng, thu lãi suất tối đa theo quy định số tiền 23.342.466 đồng, thu lợi bất chính số tiền 104.457.534 đồng; cho anh Trần Văn P vay tiền 04 lần với tổng số tiền 130.000.000 đồng, thu lãi suất tối đa theo quy định số tiền 22.794.520 đồng, thu lợi bất chính số tiền 102.005.480 đồng. Tổng cộng, Nguyễn Ngọc L thu lợi bất chính từ việc cho anh Nguyễn Văn T1 và anh Trần Văn P số tiền 206.463.014 đồng.

Bị cáo Nguyễn Ngọc L là người đã thành niên, có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự là hành vi bị pháp luật nghiêm cấm nhưng chỉ vì mục đích tư lợi cá nhân mà bị cáo vẫn thực hiện hành vi cho vay lãi nặng với lỗi cố ý trực tiếp là thể hiện sự ngang nhiên, xem thường pháp luật. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ gây ảnh hưởng, xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế của nhà nước về tín dụng, cụ thể là trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ mà còn xâm phạm đến lợi ích của công dân được pháp luật bảo vệ, làm ảnh hưởng đến an ninh trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn. Vì vậy hành vi của bị cáo Nguyễn Ngọc L đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 2 Điều 201 Bộ luật Hình sự. Do đó cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh H truy tố đối với bị cáo về tội danh theo khoản, điều luật nói trên trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan sai.

[4]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; nhân thân của bị cáo:

- Tình tiết tăng nặng, nhân thân: Bị cáo Phạm tội 02 lần trở lên nên phải chịu tình tiết tăng nặng quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự, ngoài ra bị cáo còn có 01 nhân thân bị xử phạt hành chính về hành vi đánh bạc vào tháng 3/2021.

- Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, tự nguyện ra đầu thú; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã tự nguyện khắc phục hậu quả, trả lại toàn bộ số tiền thu lợi bất chính là số tiền lãi đã thu vượt quá mức lãi suất quy định của Bộ luật Dân sự cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là anh Nguyễn Văn T1 và anh Trần Văn P, anh T1 và anh P có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; trước khi mở phiên tòa, bị cáo đã tự nguyện nộp toàn bộ số tiền 226.137.000 đồng là công cụ, phương tiện phạm tội và tạm ứng án phí hình sự sơ thẩm tại cơ quan thi hành án dân sự; vợ bị cáo là Lê Thị T, là giáo viên trường Trung học cơ sở C, huyện C, tỉnh H được tặng Kỷ niệm chương vì sự nghiệp Giáo dục và nhiều bằng khen, giấy khen khác; ông bà nội của vợ bị cáo là ông Lê Đăng B, sinh năm 1912 và bà Trương Thị T2, sinh năm 1915 được nhà nước tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng nhì. Do đó bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5]. Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và hình phạt chính.

Thời gian gần đây, hành vi cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự diễn ra hết sức phức tạp, có chiều hướng gia tăng với nhiều hình thức khác nhau gây mất an ninh trật tự, ổn định xã hội; gây hoang mang, bất bình trong dư luận xã hội, ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân. Bản thân bị cáo đã từng bị Công an xã B, huyện Đ, tỉnh H ra Quyết định xử phạt hành chính về hành vi Đánh bạc 1.500.000 đồng tại quyết định số 001485 ngày 12/3/2021 nhung không lấy đó làm bài học mà vì lợi ích cá nhân bị cáo vẫn thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi của bị cáo lẽ ra phải xử lý nghiêm tương xứng với mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Tuy nhiên xét thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rõ ràng, quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo thể hiện thái độ thành khẩn, thực sự ăn năn hối cải, trình độ văn hóa, nhận thức pháp luật có phần hạn chế, đã tự nguyện khắc phục hậu quả và giao nộp toàn bộ số tiền liên quan đến vụ án, bị cáo có nhân thân nhưng chấp hành xong đã lâu nên chưa cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà cho bị cáo được hưởng án treo nhằm thể hiện chính sách khoan hồng, nhân đạo của pháp luật và cũng đủ tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung. Vì vậy cần áp dụng áp dụng Khoản 2 Điều 201 ; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 ; Điều 65 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc L từ 09 - 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 18 - 24 tháng như đại diện viện kiểm sát đề nghị là phù hợp và đủ nghiêm. Giao bị cáo Nguyễn Ngọc L cho UBND phường B, thành phố H, tỉnh H phối hợp cùng gia đình quản lý, giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

[6]. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo Nguyễn Ngọc L thực hiện hành vi cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự nhằm mục đích thu lợi bất chính, do đó cần áp dụng hình phạt bổ sung bị cáo với hình thức phạt tiền từ 40.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng theo quy định tại Khoản 2, 3 Điều 35 Bộ luật hình sự như đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp.

[7]. Về trách nhiệm dân sự: Số tiền lãi bất hợp pháp 206.463.014 đồng Nguyễn Ngọc L đã thu của anh Nguyễn Văn T1 và anh Trần Văn P bị cáo đã trả lại đầy đủ cho anh T1, anh P theo yêu cầu của những người liên quan. Anh Nguyễn Văn T1 và anh Trần Văn P đã nhận lại đầy đủ số tiền bị cáo trả và không có yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử miễn xét.

[8]. Về Biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng, tài sản:

- Bị cáo sử dụng 180. 000.000 đồng để cho vay (Số tiền này 02 người vay đã trả lại cho bị cáo) và số tiền lãi đã thu không vượt quá 20% quy định của BLDS (Sau khi tính trừ số tiền thu lãi bất chính đã bị cáo đã trả lại cho 02 người liên quan) là 46.136.986 đồng, tổng cộng là 226.136.986 đồng. Đây là công cụ phương tiện phạm tội và số tiền bị cáo thu được khi thực hiện tội phạm nên cần tịch thu sung quỹ nhà nước theo quy định nhưng được trừ số tiền 226.137.000 đồng bị cáo đã nộp tại Cục thi hành án dân sự tỉnh H theo biên lai thu tiền số 0000727 ngày 14/8/2023 và 0000733 ngày 17/8/2023.

- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus, màu đen, số Sê-ri: F2LSFPNCHG04, gắn thẻ sim số thuê bao 0912.591.xxx, số S sim: 89840200011126358xxx, máy đã qua sử dụng (thu của Nguyễn Ngọc L), đây là công cụ, phương tiện mà bị cáo sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội nên tịch thu, hóa giá, nộp vào ngân sách nhà nước.

(Tình trạng, đặc điểm vật chứng, tài sản như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 71/2023 ngày 26/7/2023 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh H và Cục Thi hành án Dân sự tỉnh H) [8]. Đối với những hành vi và những người có liên quan trong vụ án:

Trong vụ án này Nguyễn Ngọc L còn có hành vi cho chị Lê Thị L1 vay số tiền 70.000.000 đồng với mức lãi suất là 72%/năm. Tuy nhiên lãi suất bị cáo cho vay chưa vượt quá 05 lần theo quy định của Bộ luật Dân sự. Ngoài ra, đến tháng 3/2022, Nguyễn Ngọc L không thu tiền lãi của chị Lê Thị L1 nữa nên căn cứ Điều 6 Luật Xử lý vi phạm hành chính hành vi này của Nguyễn Ngọc L đã hết thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính. Do đó, việc Cơ quan điều tra không xử lý trách nhiệm hình sự đối với Nguyễn Ngọc L về hành vi này là có căn cứ.

[9]. Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật nhưng được trừ số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số 0000727 ngày 14/8/2023 tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Hà Tình. Bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1]. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc L phạm tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự”.

[2]. Về hình phạt chính và hình phạt bổ sung:

Áp dụng khoản 2 Điều 201; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Khoản 2, 3 Điều 35; Điều 65 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc L 09 (Chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 (Mười tám) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo 40.000.000 đồng (Bốn mươi triệu đồng).

Giao bị cáo Ngyễn Ngọc L2 cho Ủy ban nhân dân phường B, thành phố H, tỉnh H giám sát, giáo dục bị cáo. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Trong trường hợp bị cáo được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 68, khoản 3 Điều 92 Luật thi hành án hình sự 2019.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Toà án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

[3]. Về biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng, tài sản:

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 46, điểm a, b Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, b Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu, sung vào ngân sách nhà nước số tiền bị cáo sử dụng làm công cụ phương tiện phạm tội 180.000.000 đồng và số tiền lãi bị cáo thu được khi thực hiện tội phạm 46.136.986 đồng, tổng cộng là 226.136.986 đồng nhưng được trừ số tiền 226.137.000 đồng mà bị cáo tự nguyện nộp theo biên lai thu số 0000727 ngày 14/8/2023 và 0000733 ngày 17/8/2023 tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh H.

- Tịch thu, hóa giá, sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động thu của Nguyễn Ngọc L nhãn hiệu Iphone 7 Plus, màu đen, số Sê -ri: F2LSFPNCHG04, gắn thẻ sim số thuê bao 0912.591.xxx, số S sim: 89840200011126358xxx, máy đã qua sử dụng.

(Tình trạng, đặc điểm vật chứng, tài sản như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 71/2023 ngày 26/7/2023 giữa Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh H và Cục Thi hành án Dân sự tỉnh H).

[4]. Về án phí:

Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án; Buộc bị cáo Nguyễn Ngọc L phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm nhưng được trừ số tiền 200.0000 đồng tiền tạm ứng án phí bị cáo đã nộp theo biên lai thu tiền số 0000727 ngày 14/8/2023 tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh H.

[5]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

56
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự số 56/2023/HS-ST

Số hiệu:56/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về