Bản án về tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự số 405/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐNG NAI

BẢN ÁN 405/2023/HS-PT NGÀY 20/09/2023 VỀ TỘI CHO VAY LÃI NẶNG TRONG GIAO DỊCH DÂN SỰ

Ngày 20 tháng 9 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 151/2023/TLPT-HS ngày 18 tháng 5 năm 2023, đối với bị cáo Phạm Thành T do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 343/2022/HSST ngày 15/8/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

Bị cáo có kháng cáo:

- Phạm Thành T; sinh năm 1980, tại Hải Phòng; nơi ĐKNKTT: thôn F, xã L, huyện V, thành phố Hải Phòng; nơi cư trú: tổ B, khu phố L, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: buôn bán; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Xuân T1 và bà Đỗ Thị L; vợ: Đỗ Thị T2, sinh năm 1988 và có 02 con (lớn sinh năm 2016, nhỏ sinh năm 2008); tiền án, tiền sự: không.

Bị bắt ngày 23/12/2021, đến ngày 22/3/2022 được tại ngoại - Có mặt.

(Trong vụ án còn có những người tham gia tố tụng khác; những người này không có kháng cáo nên Tòa án không triệu tập).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Từ tháng 05/2020, Phạm Thành T đến thành phố B sinh sống và hoạt động cho vay tiền với lãi suất cao để thu lợi bất chính. Khi những người có nhu cầu vay tiền sẽ liên lạc qua số điện thoại 0921.934.0xx thì sẽ gặp T và được hướng dẫn về việc cho vay tiền. T cho vay tiền với 02 hình thức là thu tiền lãi hàng ngày và thu tiền lãi theo tháng nên người vay tiền chỉ cần đóng tiền lãi cho T mà không phải trả góp tiền gốc và không bị giới hạn thời hạn vay, khi nào người vay muốn kết thúc khoản vay chỉ cần trả tiền gốc thì coi như đã thanh toán xong khoản vay. Phạm Thành T đã bỏ ra số tiền gốc là 150.000.000đ (Một trăm năm mươi triệu đồng) cho nhiều người trên địa bàn thành phố B vay tiền với lãi suất cao để thu lợi bất chính.

Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B xác định Phạm Thành T đã thu lợi bất chính của 04 người vay tiền trong 07 lần cho vay, cụ thể như sau:

1. Ngày 17/11/2020, T cho bà Tạ Thị T3, ngụ tại khu phố L, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai vay 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng) với hình thức thu tiền lãi hàng ngày và tiền lãi là 140.000đ/ngày (Một trăm bốn mươi nghìn đồng) tương đương với lãi suất 21%/tháng. Bà T3 đã trả tiền lãi được 49 ngày với tổng số tiền 6.860.000đ (Sáu triệu tám trăm sáu mươi nghìn đồng), đến ngày 05/02/2021 thì trả hết 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng) tiền gốc. Số tiền lãi hợp pháp tương ứng với mức 1,67%/tháng mà T được hưởng trong 49 ngày là 545.533đ (Năm trăm bốn mươi lăm nghìn năm trăm ba mươi ba đồng), số tiền thu lợi bất chính là 6.314.467đ (Sáu triệu ba trăm mười bốn nghìn bốn trăm sáu mươi bảy đồng).

2. Từ tháng 5/2020 đến tháng 3/2021, T cho bà Nguyễn Thị L1 ngụ tại tổ A, khu phố L, phường T, thành phố B vay 02 khoản vay với hình thức thu tiền lãi hàng ngày, cụ thể như sau:

- Vào tháng 5/2020 (không rõ ngày), T cho bà L1 vay 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng) với tiền lãi là 400.000đ/ngày (Bốn trăm nghìn đồng) tương đương với lãi suất 60%/tháng. Bà L1 đã trả tiền lãi được 50 ngày với tổng số tiền 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng) thì trả hết 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng) tiền gốc. Số tiền lãi hợp pháp tương ứng với mức 1,67%/tháng mà T được hưởng trong 50 ngày là 556.666đ (Năm trăm năm mươi sáu nghìn sáu trăm sáu mươi sáu đồng), số tiền thu lợi bất chính là 19.443.334đ (Mười chín triệu bốn trăm bốn mươi ba nghìn ba trăm ba mươi bốn đồng).

- Vào tháng 3/2021 (không rõ ngày), T cho bà L1 vay 50.000.000đ (Năm mươi triệu đồng) với tiền lãi là 500.000đ/ngày (Năm trăm nghìn đồng) tương đương với lãi suất 30%/tháng. Bà L1 đã trả tiền lãi được 60 ngày với tổng số tiền 30.000.000đ (Ba mươi triệu đồng) thì trả hết 50.000.000đ (Năm mươi triệu đồng) tiền gốc. Số tiền lãi hợp pháp tương ứng với mức 1,67%/tháng mà T được hưởng trong 60 ngày là 1.670.000đ (Một triệu sáu trăm bảy mươi nghìn đồng), số tiền thu lợi bất chính là 28.330.000đ (Hai mươi tám triệu ba trăm ba mươi nghìn đồng).

3. Ngày 25/10/2021, T cho bà Trần Thị Y ngụ khu phố D, phường T, B vay 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng) với hình thức thu tiền lãi hàng ngày. Bà Y phải trả tiền phí 2.000.000đ (Hai triệu đồng) nên chỉ được nhận 18.000.000đ (Mười tám triệu đồng) và phải trả tiền lãi là 400.000đ/ngày (Bốn trăm nghìn đồng) tương đương với lãi suất 66,67%/tháng. Bà Y đã trả tiền lãi được 55 ngày với tổng số tiền 22.000.000đ (Hai mươi hai triệu đồng) thì không trả được nửa nên vẫn nợ T 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng) tiền gốc. Số tiền lãi hợp pháp tương ứng với mức 1,67%/tháng mà T được hưởng trong 55 ngày là 551.100đ (Năm trăm năm mươi mốt nghìn một trăm đồng), số tiền thu lợi bất chính là 23.448.900đ (Hai mươi ba triệu bốn trăm bốn mươi tám nghìn chín trăm đồng).

4. Từ tháng 5/2020 đến tháng 10/2020, T cho ông Ngụy Văn H ngụ tại khu phố L, phường T, thành phố B vay 03 khoản vay với hình thức trả lãi theo tháng, cụ thể như sau:

- Vào tháng 5/2020 (không rõ ngày), T cho ông H vay 50.000.000đ (Năm mươi triệu đồng) với tiền lãi là 11.000.000đ/tháng (Mười một triệu đồng) tương đương với lãi suất 11%/tháng. Ông H đã trả tiền lãi được 02 tháng với tổng số tiền 22.000.000đ (Hai mươi hai triệu đồng) thì không trả được nửa nên vẫn nợ T 50.000.000đ (Năm mươi triệu đồng) tiền gốc. Số tiền lãi hợp pháp tương ứng với mức 1,67%/tháng mà T được hưởng trong 02 tháng là 1.670.000đ (Một triệu sáu trăm bảy mươi nghìn đồng), số tiền thu lợi bất chính là 9.330.000đ (Chín triệu ba trăm ba mươi nghìn đồng).

- Vào tháng 6/2020 (không rõ ngày), T cho ông H vay 50.000.000đ (Năm mươi triệu đồng) với hình thức trả tiền lãi hàng tháng và tiền lãi là 11.000.000đ/tháng (Mười một triệu đồng) tương đương với lãi suất 11%/tháng. Ông H đã trả tiền lãi được 02 tháng với tổng số tiền 22.000.000đ (Hai mươi hai triệu đồng) thì không trả được nữa nên vẫn nợ T 50.000.000đ (Năm mươi triệu đồng) tiền gốc. Số tiền lãi hợp pháp tương ứng với mức 1,67%/tháng mà T được hưởng trong 02 tháng là 1.670.000đ (Một triệu sáu trăm bảy mươi nghìn đồng), số tiền thu lợi bất chính là 9.330.000đ (Chín triệu ba trăm ba mươi nghìn đồng).

- Vào ngày 27/10/2020, T gộp 02 khoản nợ tiền gốc chưa trả trên thành hợp đồng mới cho ông H vay 100.000.000đ (Một trăm triệu đồng) với hình thức trả tiền lãi hàng tháng và tiền lãi là 18.000.000đ/tháng (Mười tám triệu đồng) tương đương với lãi suất 18%/tháng. Ông H đã trả tiền lãi được 02 tháng với tổng số tiền 36.000.000đ (Ba mươi sáu triệu đồng) thì không trả được nữa nên vẫn nợ T 100.000.000đ (Một trăm triệu đồng) tiền gốc. Số tiền lãi hợp pháp tương ứng với mức 1,67%/tháng mà T được hưởng trong 02 tháng là 3.340.000đ (Ba triệu ba trăm bốn mươi nghìn đồng), số tiền thu lợi bất chính là 32.660.000đ (Ba mươi hai triệu sáu trăm sáu mươi nghìn đồng).

Ngày 22/12/2021, tổ công tác của Đội Cảnh sát kinh tế Công an thành phố B phát hiện Phạm Thành T có hành vi cho vay tiền trả góp với lãi suất cao nên đã đưa T về làm việc và lập hồ sơ xử lý.

Theo quy định tại Điều 468 Bộ luật dân sự thì lãi suất do các bên tự thỏa thuận nhưng không vượt quá 20%/năm (tương đương 1,67%/tháng), Phạm Thành T đã cho 04 người vay tiền trong 07 lần vay với lãi suất từ 11%/tháng đến 66,67%/tháng đã vượt gấp 05 lần trở lên của mức lãi suất cao nhất quy định trong Bộ luật dân sự. Số tiền Phạm Thành T sử dụng để cho vay là 150.000.000đ (Một trăm năm mươi triệu đồng), tổng số tiền lãi và tiền phí Phạm Thành Trung đã thu được là 138.860.000đ (Một trăm ba mươi tám triệu tám trăm sáu mươi nghìn đồng), trong đó tiền lãi tương ứng với mức lãi suất theo quy định của Bộ luật dân sự (tương đương 1,67%/tháng) là 10.003.299đ (Mười triệu không trăm lẻ ba nghìn hai trăm chín mươi chín đồng), số tiền Trung thu lợi bất chính là 128.856.701đ (Một trăm hai mươi tám triệu tám trăm năm mươi sáu nghìn bảy trăm lẻ một đồng).

Vật chứng của vụ án:

- 01 xe mô tô hiệu Honda Wave S, biển số 67M7-23xx của bị cáo Phạm Thành T sử dụng vào việc phạm tội. Hiện nay chưa xác minh được chủ sở hữu nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B tiếp tục tạm giữ để xác minh và xử lý sau;

- 01 điện thoại di động hiệu IPhone 6, số IMEI: 3543840674790xx gắn sim số 0986.242.8xx và số tiền 2.550.000đ (Hai triệu năm trăm năm mươi nghìn đồng) là tài sản cá nhân của bị cáo Phạm Thành T.

- 01 điện thoại di động hiệu Vivo số IMEI: 8648740587205xx gắn sim số 0921.934.0xx của bị cáo Phạm Thành T sử dụng vào việc phạm tội.

Về trách nhiệm dân sự: Những người vay tiền không yêu cầu bị cáo trả lại số tiền đã thu vượt quá quy định pháp luật.

Tại bản án số 343/2022/HSST ngày 15/8/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai đã áp dụng khoản 2 Điều 201; các điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự Tuyên bố bị cáo Phạm Thành T phạm tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự”.

Xử phạt bị cáo Phạm Thành T 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo vào trại thi hành án, được trừ đi thời gian bị giam giữ trước từ ngày 23/12/2021 đến ngày 22/3/2022.

Ngoài ra bản án còn tuyên về biện pháp tư pháp, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Vào ngày 23 tháng 8 năm 2022 bị cáo Phạm Thành T làm đơn kháng cáo xin được hưởng án treo. Tại phiên tòa, bị cáo T tiếp tục đề nghị Hội đồng xét xử xem xét kháng cáo.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai tại phiên tòa:

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự” và áp dụng khoản 2 Điều 201; điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Phạm Thành T 01 (một) năm tù là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, phù hợp với tính chất và hành vi phạm tội của bị cáo. Bị cáo T vẫn giữ nguyên đơn kháng cáo xin được hưởng án treo, bị cáo đã nộp số tiền 65.000.000 đồng thu lợi bất chính nhưng chưa trả lại số tiền lãi cho người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo của bị cáo Phạm Thành T, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

Quá trình tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, Hội đồng xét xử đánh giá các quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng pháp luật.

Đơn kháng cáo của bị cáo làm trong hạn luật định nên được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Về nội dung vụ án:

Tại phiên tòa bị cáo Phạm Thành T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung của bản án sơ thẩm đã nêu thể hiện: Trong khoảng thời gian từ tháng 5/2020 đến ngày 22/12/2021, bị cáo đã 07 lần cho 04 người vay tiền bao gồm bà Tạ Thị T3, bà Nguyễn Thị L1, bà Trần Thị Y, ông Ngụy Văn H với mức lãi suất từ 11%/tháng đến 66,67%/tháng đã vượt gấp 05 lần mức lãi suất cho phép theo quy định tại Điều 468 Bộ luật dân sự. Số tiền bị cáo sử dụng cho vay là 150.000.000đ, số tiền lãi thu được là 138.860.000đ, trong đó tiền lãi theo quy định là 10.003.299đ, như vậy bị cáo đã thu lợi bất chính số tiền là 128.856.701đ. Hành vi nêu trên của bị cáo Phạm Thành T gây nguy hiểm cho xã hội; không những đã xâm phạm chế độ quản lý kinh tế của Nhà nước trong lĩnh vực tài chính mà còn xâm phạm đến quyền và lợi ích của công dân, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo đủ tuổi, đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự” theo quy định tại khoản 2 Điều 201 Bộ luật hình sự là có căn cứ đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Tòa án cấp sơ thẩm đã căn cứ vào việc bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đều thành khẩn khai báo, tỏ thái độ ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Từ đó, Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo Phạm Thành T 01 (một) năm tù là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội.

Tuy nhiên, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: bị cáo phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; thành khẩn khai báo; hiện bị cáo đang nuôi 02 con còn nhỏ trong độ tuổi đi học; bị cáo đã bị tạm giam 03 tháng. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo đã nộp số tiền thu lợi bất chính 65.000.000 đồng tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Đồng Nai, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới tại cấp phúc thẩm. Xét bị cáo Phạm Thành T có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, việc cho bị cáo được hưởng án treo cũng đủ răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung nên Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

[3] Về án phí: Kháng cáo của bị cáo Phạm Thành T được chấp nhận nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Quan điểm và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai không phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên không được ghi nhận.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự: Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phạm Thành T, sửa một phần bản án sơ thẩm số 343/2023/HS-ST ngày 15/8/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai về hình phạt.

2. Căn cứ khoản 2 Điều 201; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự; Nghị quyết số: 02/VBHN-TANDTC ngày 07 tháng 9 năm 2022 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao.

Xử phạt bị cáo Phạm Thành T 01 (một) năm tù về tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự”, nhưng cho bị cáo được hưởng án treo. Thời gian thử thách là 02 (hai) năm, tính từ ngày tuyên án phúc thẩm.

Giao bị cáo Phạm Thành T cho Ủy ban nhân dân phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật hình sự.

Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 87 và khoản 1 Điều 92 của Luật Thi hành án hình sự năm 2019.

3. Các biện pháp khác: Tạm giữ số tiền bị cáo đã nộp là 65.000.000đ (Sáu mươi lăm triệu đồng), tại biên lai thu số 0000964 ngày 15/8/2023 tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Đồng Nai để đảm bảo thi hành án.

4. Về án phí:

Áp dụng Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Phạm Thành T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

5. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

24
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự số 405/2023/HS-PT

Số hiệu:405/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về