Bản án về tội chiếm đoạt tài sản số 80/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VINH, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 80/2023/HS-ST NGÀY 11/04/2023 VỀ TỘI CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 11 tháng 4 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 76/2023/HSST ngày 21 tháng 3 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 92/2023/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 3 năm 2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: Hoàng N; Tên gọi khác: Không; Giới tính; Nam; Sinh ngày: 12 tháng 02 năm 1997 tại huyện Nghĩa Đàn, tỉnh Nghệ An; Nơi ĐKNKTT: Xóm 1, xã P, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An; Nghề ngH: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 11/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông:

Hoàng Thành V – sinh năm 1950 và bà Nguyễn Thị L – sinh năm 1971; Vợ: Nguyễn Thị Hằng N – sinh năm 1998; Con: Có 01 con sinh năm 2015; Tiền án, tiền sự: không; Nhân thân: Ngày 10/4/2017, Công an thành phố Vinh xử phạt 2.000.000 đồng về hành vi “cố ý gây thương tích”; Ngày 29/8/2017, Tòa án nhân dân thành phố Vinh xử phạt 27 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Ngày 09/8/2018, Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An ra Quyết định ra tù trước thời hạn có điều kiện là 09 tháng 04 ngày, thời gian thử thách là 09 tháng 04 ngày; Ngày 14/5/2019, Tòa án nhân dân thành phố Vinh xử phạt 18 tháng 04 ngày về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, chấp hành xong án phạt tù ngày 09/6/2020; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 08/01/2023 đến nay có mặt tại phiên tòa.

- Người bị hại:

+ Anh Phan Đình H – sinh năm 1992 – có mặt Địa chỉ: Khối 7, phường V, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An.

+ Anh Lê Công Nhật L – sinh năm 1995 – vắng mặt Địa chỉ: Khối 15, phường T, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

+ Anh Đặng Hồng C – sinh năm 1994; Địa chỉ: Xóm X, xã Đ, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An – vắng mặt + Chị Nguyễn Thị H – sinh năm 1978 – vắng mặt Địa chỉ: Xóm 3, xã P, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An.

1 + Anh Nguyễn Đình T – sinh năm 2000; Địa chỉ: Xóm 3, xã S, huyện Đ, tỉnh Nghệ An – vắng mặt + Chị Phan Thị H – sinh năm 1991; Địa chỉ: Khối Y, phường V, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An – vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng thời gian từ 15/12/2022 đến 04/01/2023, trên địa bàn thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An, do không có tiền tiêu xài nên Hoàng N đã thực hiện 02 vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Cụ thể: Vụ thứ nhất: Khoảng 12 giờ 15 phút, ngày 15/12/2022, trong khi đi chơi nhưng trong người không có tiền nên Hoàng N nảy sinh ý định mượn 01 (một) chiếc xe mô tô, nhãn hiệu Honda Wave Alpha, màu đỏ bạc, biển số 37B3-206.xx của anh Phan Đình H (sinh năm 1992, trú tại khối 7, phường V, thành phố Vinh) để cầm cố lấy tiền tiêu xài. Sau đó, Hoàng N gọi điện thoại cho anh H hỏi mượn chiếc xe trên đi có tý việc thì anh H đồng ý. Đến khoảng 13 giờ cùng ngày, Hoàng N bắt taxi đến gặp anh H trước cửa hàng Văn Đỗ, đường Lê Lợi, thành phố Vinh, tại đây, anh H giao cho Nguyên 01 (một) chiếc xe mô tô, nhãn hiệu Honda Wave Alpha, màu đỏ bạc, biển số 37B3- 206.xx để sử dụng. Khoảng 13 giờ 30 phút cùng ngày, sau khi nhận xe, Hoàng N đưa chiếc xe mô tô của anh H đến quán “Bi-a C Kevin” tại địa chỉ 344, đường Đặng Thai Mai, xã Đ, thành phố Vinh gặp anh Đặng Hồng C (sinh năm 1994, trú tại xóm X, xã Đ, thành phố Vinh để cầm cố tài sản lấy số tiền 6.000.000 đồng. Nguyên cầm tiền và tiêu xài cá nhân hết.

Sau khi xảy ra sự việc, anh H đã nhiều lần yêu cầu Nguyên trả xe do không có tiền để chuộc lại chiếc xe nên Nguyên đã cắt đứt liên lạc với anh H.

Vụ thứ hai : Vào khoảng 21 giờ 30 phút ngày 04/01/2023, do cần tiền tiêu xài cá nhân nên Hoàng N nảy sinh ý định mượn xe của anh Lê Công Nhật L (sinh năm 1995, trú tại khối 15, phường T, thành phố Vinh) để đưa đi cầm cố. Sau đó, Hoàng N sử dụng tài khoản “Hoàng N” nhắn tin cho anh L, nhờ anh L đến Chung cư Bảo Sơn, phường Hưng Bình, thành phố Vinh đón và chở Hoàng N đi đến nhà bạn. Sau đó, anh L điều khiển xe mô tô, nhãn hiệu Wave Alpha, màu trắng, biển số 37M1-770.xx đến và chở Nguyên đi. Khi đến đường Nguyễn Tiềm thuộc phường Đội Cung, thành phố Vinh thì Nguyên nói anh L dừng xe lại và nói dối anh L đứng chờ ở đây, còn Nguyên mượn xe vào nhà bạn một lúc rồi sẽ quay trở lại trả xe thì anh L đồng ý giao xe cho Nguyên. Sau khi lấy xe, Nguyên điều khiển xe đến gặp chị Nguyễn Thị H (sinh năm 1978, trú tại xóm 3, xã P, thành phố Vinh) là chủ cửa hàng sửa chữa điện thoại “Long Hương”, địa chỉ số 120, đường Lý Thường Kiệt, phường Lê Lợi, thành phố Vinh để cầm cố chiếc xe với số tiền 6.000.000 đồng (Sáu triệu đồng) trong thời gian 10 ngày và thỏa thuận tiền lãi suất là 600.000 đồng (Sáu trăm nghìn đồng). Sau đó, chị Hương nói Nguyên đưa chiếc xe mô tô trên đến nhà xe Bệnh viện đa khoa TTH Vinh tại địa chỉ số 105 đường Lý Thường Kiệt, thành phố Vinh để gửi xe. Sau đó, Nguyên cầm vé xe và chìa khóa xe mô tô quay trở lại đưa cho chị Hương và chị Hương đưa cho Nguyên số tiền 5.400.000 đồng (Năm triệu bốn trăm nghìn đồng) đã trừ 600.000 đồng (sáu trăm nghìn đồng) tiền lãi suất. Sau khi lấy tiền, Nguyên tiêu xài cá nhân hết.

Ngày 07/01/2023, biết cơ quan Công an đang điều tra và nhận thức hành vi của mình là vi phạm pháp luật nên Nguyên đến Công an phường Đội Cung, thành phố Vinh xin đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại kết luận định giá tài sản số 06/KL- ĐGTS ngày 11 tháng 01 năm 2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự - Ủy ban nhân dân thành phố Vinh kết luận : 01 (Một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA, số loại: WAVE ALPHA, màu sơn: Đỏ bạc, đăng ký lần đầu ngày 02/12/2022, xe đã qua sử dụng, tại thời điểm tháng 12/2022 có trị giá: 17.300.000 đồng (Mười bảy triệu ba trăm nghìn đồng); 01 (Một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA, số loại: WAVE ALPHA, màu sơn: Trắng đen bạc, đăng ký lần đầu ngày 08/12/2017, xe đã qua sử dụng, tại thời điểm ngày 04/01/2023 có trị giá: 6.800.000 đồng (Sáu triệu tám trăm nghìn đồng); Tổng cộng trị giá tài sản định giá: 24.100.000 đồng (Hai mươi tư triệu một trăm nghìn đồng).

Bản Cáo Trạng số 99/CT-VKS-TPV ngày 20 tháng 3 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An đã truy tố Hoàng N về tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An giữ quyền công tố tại phiên tòa, đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 174; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt Hoàng N từ 18 – 21 tháng tù; Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản nên không yêu cầu gì về dân sự vì vậy miễn xét. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Đặng Hồng C yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 6.000.000 đồng (sáu triệu đồng), Chị Nguyễn Thị H yêu cầu bồi thường số tiền 5.400.000 đồng (năm triệu bốn trăm nghìn đồng). Xét yêu cầu của anh C và chị Hương là chính đáng nên cần buộc bị cáo phải bồi thường số tiền trên; Về vật chứng: Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia TA-1174, màu đen, đã qua sử dụng, bên trong gắn thẻ sim số thuê bao 0354.107.2xx thu giữ của Hoàng N; Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí HSST, DSST theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo hoàn toàn thừa nhận hành vi phạm tội như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã quy kết và không tranh luận gì mà đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thành phố Vinh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về nội dung:

[2.1]. Tại phiên tòa, bị cáo đã hoàn toàn thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Xét lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, người liên quan; phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận:

Trong khoảng thời gian từ 15/12/2022 đến 04/01/2023, tại khu vực thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An, Hoàng N đã có hành vi lừa đảo chiếm đoạt 02 (hai) chiếc xe mô tô Honda wave alpha có tổng trị giá 24.100.000 đồng (hai mươi tư triệu một trăm nghìn đồng) của anh Phan Đình H và anh Lê Công Nhật L rồi mang đi cầm cố lấy tiền tiêu xài cá nhân. Tổng số tiền giá trị tài sản bị cáo Hoàng N Chiếm đoạt là 24.100.000 đồng (hai mươi tư triệu một trăm nghìn đồng). Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh truy tố bị cáo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” được quy định tại khoản 1 điều 174 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2.2]. Vụ án thuộc loại ít nghiêm trọng nhưng hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến quyền sở hữu của người khác được pháp luật bảo vệ mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống, gây tâm lý hoang mang cho người dân, bị cáo là người có nhân thân xấu. Vì vậy, phải xử phạt nghiêm và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian là cần thiết mới đủ răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

Xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội 02 lần trở lên nên phải chịu tình tiết tăng nặng “Phạm tội 02 lần trở lên” được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; sau khi phạm tội đã ra đầu thú, người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, gia đình có bố là người có công với cách mạng, nên bị cáo được hưởng những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[2.3]. Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo phải bồi thường cho anh Đặng Hồng C số tiền 6.000.000 đồng (sáu triệu đồng) và Chị Nguyễn Thị H số tiền 5.400.000 đồng (năm triệu bốn trăm nghìn đồng).

[2.4]. Về vật chứng: - 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia TA-1174, màu đen, đã qua sử dụng, bên trong gắn thẻ sim số thuê bao 0354.107.2xx thu giữ của Hoàng N là phương tiện phạm tội nên cần tịch thu xung quỹ nhà nước.

[2.5]. Về vấn đề khác: Đối với anh Đặng Hồng C và chị Nguyễn Thị H cho bị cáo Hoàng N cầm cố tài sản nhưng không biết đó là tài sản do phạm tội mà có nên không phạm tội. Đối với hai chiếc xe nhãn hiêu Wave alpha biển số 37B3-206.xx và biển số 37M1-770.xx đã được trả lại cho chủ sở hữu là chị Phan Thị H và anh Nguyễn Đình T theo đúng quy định pháp luật.

[2.6]. Về án phí: Buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Hoàng N phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 174; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, xử phạt Hoàng N 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 08/01/2023.

- Về bồi thường dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 584, 585, 586, 589 Bộ luật dân sự năm 2015, buộc bị cáo Hoàng N phải bồi thường cho anh Đặng Hồng C số tiền 6.000.000 đồng (sáu triệu đồng), bồi thường cho chị Nguyễn Thị H số tiền 5.400.000 đồng (năm triệu bốn trăm nghìn đồng).

Sau khi án có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày những người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án số tiền bồi thường nêu trên nếu bị cáo không thanh toán khoản tiền đã tuyên thì hàng tháng còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

Trường hợp bản án quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại điều 6, điều 7 và điều 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Về vật chứng vụ án: Căn cứ điều 47 Bộ luật hình sự, điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu xung quỹ nhà nước 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia TA-1174, màu đen, đã qua sử dụng, bên trong gắn thẻ sim số thuê bao 0354.107.2xx của Hoàng N, đã qua sử dụng (Vật chứng hiện có tại kho vật chứng của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Vinh theo phiếu nhập kho vật chứng số NK2023/120 ngày 27/3/2023).

Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 570.000 đồng (Năm trăm bảy mươi ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo, người bị hại có mặt có quyền kháng cáo Bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An. Người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

44
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội chiếm đoạt tài sản số 80/2023/HS-ST

Số hiệu:80/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vinh - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về