Bản án về tội buôn bán hàng cấm số 50/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 50/2023/HS-ST NGÀY 28/09/2023 VỀ TỘI BUÔN BÁN HÀNG CẤM

Ngày 28 tháng 9 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 45/2023/TLST-HS, ngày 31 tháng 8 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 43/2023/QĐXXST- HS, ngày 15 tháng 9 năm 2023 đối với các bị cáo:

1. Trần Quan H; tên gọi khác: Ròm, sinh năm: 1990 tại huyện Phù M, tỉnh Bình Định.

Nơi cư trú: Thôn Xuân Bình B, xã Mỹ Thành, huyện Phù M, tỉnh Bình Định; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 8/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Hữu S, sinh năm 1963 và bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1963; bị cáo chưa có vợ, con.

Tiền án, tiền sự: Không có.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/12/2022 đến nay tại Nhà tạm giữ Công an huyện Đ, tỉnh Gia Lai.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Nguyễn Thành D; tên gọi khác: Không, sinh năm: 1992 tại huyện Phù M, tỉnh Bình Định.

Nơi ĐKHKTT: Thôn Chánh T, xã Mỹ T, huyện Phù M, tỉnh Bình Định; Chỗ ở hiện nay: Số 8C đường 52, phường Hiệp Bình C, thành phố Thủ Đ, thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 8/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn L, sinh năm 1961 và bà Lê Thị Mỹ D, sinh năm 1963; bị cáo có vợ tên là Trương Thị Mỹ S, sinh năm 1993; bị cáo có 02 người con, con lớn sinh năm 2018, con nhỏ sinh 2020.

Tiền án, tiền sự: Không có.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 30/5/2023 đến ngày 08/6/2023 bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú đến nay tại xã Mỹ T, huyện Phù M, tỉnh Bình Định.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

3. Hoàng Anh T; tên gọi khác: Không, sinh năm: 1996 tại thành phố Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa.

Nơi cư trú: Tổ dân phố Hòa D, phường Cam Phúc B, thành phố Cam R, tỉnh Khánh Hòa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: phật giáo; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Trường S, sinh năm 1966 và bà Đoàn Thị Kim C, sinh năm 1965; bị cáo chưa có vợ, con.

Tiền án, tiền sự: Không có.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 19/5/2023 đến nay tại phường Cam Phúc B, thành phố Cam R, tỉnh Khánh Hòa.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Lê Đình T, sinh năm 1994.

Trú tại: Thôn Thanh L, xã Phước M, thành phố Quy N, tỉnh Bình Định.

Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng thời gian cuối tháng 12/2022, Trần Quan H lên các trang mạng để tìm hiểu nơi bán pháo lậu và tìm người mua pháo để bán lại để kiếm lời. Đến ngày 27/12/2022, H quen biết một người có tài khoản zalo tên “Hiệu” (chưa xác định được nhân thân, lai lịch), H đã liên hệ để đặt vấn đề mua pháo, thì người này đồng ý và hẹn đến huyện Đ để nhận hàng và giao tiền. Sau đó, H liên hệ với Nguyễn Thành D thông qua tài khoản zalo Nguyễn D và Hoàng Anh T thông qua tài khoản zalo Hoàng T (đây là những người mà Hộ đã kết bạn từ trước đó) trao đổi bán pháo, thì D và T đồng ý mua. Quá trình trao đổi thì D và H thống nhất giá mua bán mỗi hộp pháo loại 49 viên là 1.000.000 đồng/hộp. D đã đặt mua của H 17 (mười bảy) hộp pháo hoa nổ với số tiền là 17.000.000đ (mười bảy triệu đồng) để sử dụng. D đã chuyển tiền vào tài khoản ngân hàng của H. Hai bên thoả thuận sau khi H mua pháo xong sẽ chuyển pháo đến địa chỉ nhà của D, thuộc thôn Chánh T, xã Mỹ T, huyện Phù M, tỉnh Bình Định. Đối với Hoàng Anh T do quen trên mạng nên T không tin tưởng và bảo khi nào có pháo thì quay video lại cho T xem, T sẽ chuyển tiền mua.

Đến ngày 29/12/2022, H đến huyện Đ, tỉnh Gia Lai gặp người có tài khoản zalo là “Hiệu” để mua của người này 45 (bốn mươi lăm) hộp pháo, với giá tiền 700.000đ (bảy trăm nghìn đồng) một hộp, tổng cộng tiền mua pháo là 31.500.000đ (ba mươi mốt triệu năm trăm nghìn đồng). Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, người bán pháo đã chỉ dẫn H đi đến lô cao su thuộc địa phận thôn Ia Lâm T, xã Ia K, huyện Đ, tỉnh Gia Lai để xem pháo. Sau khi H kiểm đếm thấy được số lượng pháo H cần mua đúng như đã thoả thuận. Lúc này, Hộ đã gọi video qua zalo cho Hoàng Anh T để xem pháo, T đồng ý mua 06 hộp pháo và chuyển tiền qua tài khoản ngân hàng cho H số tiền 4.000.000đ (bốn triệu đồng), còn nợ lại 200.000đ khi nào nhận hàng sẽ thanh toán đủ. H sẽ vận chuyển pháo đến địa chỉ của T. Sau đó, H đến cây ATM tại huyện Đ rút tổng cộng số tiền là 21.000.000đ, trong đó có 4.000.000đ (bốn triệu đồng) của T và 17.000.000đ (mười bảy triệu đồng) của D. H đi đến gặp người bán và đưa cho người bán 25.000.000đ (hai mươi lăm triệu đồng) và còn nợ lại 6.500.000đ (sáu triệu đồng), hẹn sẽ trả sau, thì người bán đồng ý.

Sau khi giao dịch mua bán xong, H điều khiển xe mô tô biển kiểm soát: 77D1-51xxx, đến vị trí cất giấu pháo để lấy pháo vận chuyển về thì bị lực lượng chức năng phát hiện bắt quả tang và thu giữ tang vật.

Ngày 30/3/2023 Hoàng Anh T đến đã đến Công an huyện Đ để đầu thú và khai nhận hành vi phạm tội của mình. Đối với Nguyễn Thành D sau khi phạm tội đã bỏ trốn bị cơ quan điều tra truy nã đến ngày 30/5/2023 đã đến Cơ quan Công an đầu thú.

Tại Kết luận giám định số 63/KL-KTHS ngày 07/01/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai, kết luận: 45 (bốn mươi lăm) hộp giấy kín, gồm: 25 (hai mươi lăm) hộp giấy kín, bên ngoài đều dán giấy màu in chữ nước ngoài và chữ “KS4 – 49A BRILLIANT BLOOM – 49 SHOTS” và 20 (hai mươi) hộp giấy kín, bên ngoài đều dán giấy màu in chữ nước ngoài và chữ “KS4 – 49A BRILLIANT BLOOM – 49 SHOTS”, bên trong mỗi hộp đều có 49 (bốn mươi chín) vật hình trụ màu xám đường kính 2,4cm, dài 10cm, các vật hình trụ có dây nối liên kết với nhau dựng trong 01 (một) ba lô màu đen, 01 (một) bao xác rắn màu đen và 01 (một) va ly vải màu đỏ chuyển đến giám định là pháo hoa nổ. Tổng khối lượng là 82,3kg (tám mươi hai phẩy ba ki lô gam).

Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận định giám định.

Tại Bản Cáo trạng số: 42/CT-VKS, ngày 31/8/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, tỉnh Gia Lai đã truy tố: bị cáo Trần Quan H về tội “Buôn bán hàng cấm” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 190; bị cáo Nguyễn Thành D và bị cáo Hoàng Anh T về tội “Tàng trữ hàng cấm” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 191 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố đề nghị:

- Về tội danh:

Đề nghị tuyên bố:

+ Bị cáo Trần Quan H phạm tội “Buôn bán hàng cấm” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 190 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;

+ Bị cáo Nguyễn Thành D và bị cáo Hoàng Anh T phạm tội “Tàng trữ hàng cấm” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 191của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.

- Về mức hình phạt:

Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 190; các Điều 38, 50; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Trần Quan H.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 191; các Điều 38, 50; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Nguyễn Thành D và bị cáo Hoàng Anh T.

Đề nghị xử phạt:

+ Bị cáo Trần Quan H: từ 06 (sáu) năm tù đến 06 (sáu) năm 06 (sáu) tháng tù.

+ Bị cáo Nguyễn Thành D: từ 18 (mười tám) tháng tù đến 24 (hai mươi bốn) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 36 (ba mươi sáu) tháng đến 48 (bốn mươi tám) tháng kể từ ngày tuyên án.

+ Bị cáo Hoàng Anh T: từ 09 (chín) tháng tù đến 12 (mười hai) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 18 (mười tám) tháng đến 48 (hai mươi bốn) tháng kể từ ngày tuyên án.

- Về hình phạt bổ sung: Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

- Về xử lý vật chứng của vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử xử lý vật chứng vụ án theo quy định pháp luật.

- Về án phí: Các bị cáo Trần Quan H, Nguyễn Thành D và Hoàng Anh T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Trước khi Hội đồng xét xử nghị án bị cáo nói lời sau cùng: Các bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Ngày 27/12/2022, bị cáo Trần Quan H đã thỏa thuận mua pháo của một người có tài khoản zalo tên “Hiệu”(chưa xác định được nhân thân, lý lịch) để bán lại kiếm lời. Hai bên thống nhất địa điểm giao tiền và nhận pháo tại huyện Đ, tỉnh Gia Lai. Sau đó, bị cáo H đã liên hệ với các bị cáo Nguyễn Thành D và Hoàng Anh T qua tài khoản zalo để thống nhất số lượng và giá cả. Theo đó, bị cáo D mua 17 hộp pháo với số tiền 17.000.000 đồng, bị cáo T mua 6 hộp pháo với số tiền 4.200.000 đồng. Bị cáo H đã mua của người có tài khoản zalo tên “Hiệu” tổng cộng 45 hộp pháo với giá 31.500.000 đồng (trong đó có 17 hộp pháo bán cho D, 06 hộp pháo bán cho T, 22 hộp pháo còn lại của H). Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, tại lô cao su thuộc thôn Ia Lâm T, xã Ia Krêl, huyện Đ, tỉnh Gia Lai, trong khi H đang sắp xếp pháo để chuẩn bị vận chuyển thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ bắt quả tang, với tổng khối lượng là 82,3kg (tám mươi hai phẩy ba ki lô gam).

[2] Lời khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của các bị cáo Trần Quan H, Nguyễn Thành D và Hoàng Anh T trong quá trình điều tra vụ án và tại phiên toà là phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được trong hồ sơ vụ án.

[3] Hành vi mua pháo hoa nổ để bán lại kiếm lời với tổng khối lượng là 82,3kg (tám mươi hai phẩy ba ki lô gam) của bị cáo Trần Quan H đã phạm vào tội: “Buôn bán hàng cấm” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 190 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Hành vi mua 31,1kg pháo hoa nổ để sử dụng của bị cáo Nguyễn Thành D và hành vi mua 11 kg pháo hoa nổ để sử dụng của bị cáo Hoàng Anh T đã phạm vào tội: “Tàng trữ hàng cấm” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 191 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 như Cáo trạng số: 42/CT-VKS, ngày 31/8/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ đã truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Pháo hoa nổ là sản phẩm Nhà nước độc quyền quản lý và cấm lưu hành, trao đổi, mua bán, tàng trữ. Việc sử dụng pháo hoa nổ trái phép gây nguy hiểm cho bản thân người sử dụng và cộng đồng dân cư. Hành vi buôn bán, tàng trữ pháo hoa nổ của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bản thân các bị cáo hoàn toàn nhận thức rõ việc buôn bán, tàng trữ, sử dụng pháo hoa nổ trái phép là bị pháp luật nghiêm cấm nhưng các bị cáo vẫn thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy cần xử phạt các bị cáo mức án tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo. Trong vụ án này, bị cáo Trần Quan H là người trực tiếp mua pháo hoa nổ để bán lại cho bị cáo Hoàng Anh T và bị cáo Nguyễn Thành D. Bị cáo D và bị cáo T mặc dù biết pháo hoa nổ là hàng cấm nhưng vẫn mua về để sử dụng trong dịp Tết Nguyên Đán.

[5] Khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử xem xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo. Các bị cáo Trần Quan H, Hoàng Anh T và Nguyễn Thành D có nhân thân tốt, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, không có tiền án, tiền sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra vụ án và tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình; Bị cáo D và bị cáo T phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Sau khi phạm tội, các bị cáo D, T đã đến Công an huyện Đ đầu thú. Gia đình của bị cáo Trần Quan H có công với cách mạng. Vì vậy cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 cho các bị cáo và áp dụng thêm điểm i khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 cho bị cáo D và bị cáo T là phù hợp.

[6] Hội đồng xét xử xét thấy các bị cáo Hoàng Anh T và Nguyễn Thành D có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, các bị cáo đã ăn năn hối cải về hành vi phạm tội. Vì vậy, không cần phải cách ly các bị cáo D, T ra khỏi xã hội mà chỉ cần giao các bị cáo D, T cho chính quyền địa phương và gia đình giám sát giáo dục cũng đủ tác dụng răn đe và phòng ngừa tội phạm.

[7] Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử xét thấy các bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, vì vậy không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[8] Đối với người đã bán pháo cho H: Cơ quan điều tra đã có Công văn số 89, ngày 25/3/2023, gửi Công ty Zalo Việt Nam (VNG) đề nghị cung cấp thông tin đăng ký tài khoản “zalo” tên “Hieu” nhưng đến nay chưa có kết quả trả lời. Đề nghị Cơ quan điều tra tiếp tục thu thập thông tin của đối tượng này để xử lý theo quy định pháp luật.

[9] Đối với anh Lê Đình T (chủ sở hữu xe mô tô BKS 77D1-51xxx): Quá trình điều tra xác định anh T đã cho bị cáo H mượn chiếc xe trên để đi lại. Việc bị cáo H sử dụng xe mô tô của anh T để mua bán, vận chuyển pháo ngày 29/12/2022 thì anh T hoàn toàn không biết nên Cơ quan điều tra đã trả lại xe mô tô trên cho anh T là có căn cứ. Vì vậy, Hội đồng xét xử không xem xét.

[10] Về vật chứng của vụ án:

+ Đối với 01 (một) chiếc điện thoại di động không rõ nhãn hiệu do Nguyễn Thành D sử dụng để liên lạc mua pháo của Trần Quan H. Quá trình điều tra xác định sau khi bị phát hiện hành vi phạm tội thì D đã bán cho một người đàn ông không rõ lai lịch với số tiền 500.000đ (năm trăm nghìn đồng). Đây là công cụ sử dụng vào việc phạm tội. Vì vậy, cần truy thu số tiền này để sung ngân sách Nhà nước.

+ Đối với 01 (một) chiếc điện thoại di động màn hình cảm ứng, vỏ màu xanh đen có in chữ Redmi, đã qua sử dụng, không kiểm tra tình trạng bên trong;

01 chiếc ĐTDĐ nhãn hiệu Samsung, loại màn hình cảm ứng, đã qua sử dụng. Đây là những công cụ, phương tiện sử dụng vào việc phạm tội, vì vậy cần tịch thu sung ngân sách Nhà nước.

+ 20 (hai mươi) hộp giấy, bên ngoài đều dán giấy màu in chữ nước ngoài và chữ “KS4-49A BRILLIANT BLOOM – 49 SHOTS”, tổng khối lượng 37,1kg.

+ 16 (mười sáu) hộp giấy, bên ngoài đều dán giấy màu in chữ nước ngoài và chữ “KS4-49B BRILLIANT BLOOM – 49 SHOTS”, tổng khối lượng 28,7kg.

+ Vỏ bao gói (01 ba lô màu đen).

Tất cả được niêm phong trong 01 (một) valy màu đỏ và 01 (một) bao xác rắn màu đen có các dấu hình tròn nội dung “CÔNG AN TỈNH GIA LAI – PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ” và các chữ ký ghi họ tên Nguyễn Minh Tâm, Nguyễn Thành Long và Phan Thanh Thế.

Toàn bộ là pháo hoa nổ còn lại sau giám định, là vật cấm lưu hành, những vật chứng khác không có giá trị sử dụng vì vậy cần tịch thu tiêu hủy.

[11] Về án phí: Các bị cáo Trần Quan H, Nguyễn Thành D và Hoàng Anh T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[12] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan CSĐT Công an huyện Đ, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo, những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

Điểm g khoản 2 Điều 190; các Điều 38, 50; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Trần Quan H.

Điểm c khoản 1 Điều 191; Điều 50; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Nguyễn Thành D và bị cáo Hoàng Anh T.

- Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

- Khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

- Tuyên bố:

+ Bị cáo Trần Quan H phạm tội “Buôn bán hàng cấm”;

+ Bị cáo Nguyễn Thành D và bị cáo Hoàng Anh T phạm tội “Tàng trữ hàng cấm”.

- Xử phạt:

Bị cáo Trần Quan H: 06 (sáu) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam là ngày 29/12/2022.

Bị cáo Nguyễn Thành D: 18 (mười tám) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 36 (ba mươi sáu) tháng kể từ ngày tuyên án (ngày 28/9/2023).

Bị cáo Hoàng Anh T: 09 (chín) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 (mười tám) tháng kể từ ngày tuyên án (ngày 28/9/2023).

Giao bị cáo Nguyễn Thành D cho Ủy ban nhân dân xã Mỹ T, huyện Phù M, tỉnh Bình Định giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Giao bị cáo Hoàng Anh T cho Ủy ban nhân dân phường Cam Phúc B, thành phố Cam R, tỉnh Khánh Hòa giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật thi hành án hình sự năm 2019.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo theo quy định tại khoản 5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Về vật chứng của vụ án:

- Truy thu số tiền 500.000đ (năm trăm nghìn đồng) đối với bị cáo Nguyễn Thành D để nộp ngân sách Nhà nước.

- Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước:

+ 01 (một) điện thoại di động màn hình cảm ứng, vỏ màu xanh đen có in chữ Redmi, đã qua sử dụng, không kiểm tra tình trạng bên trong.

+ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung, loại màn hình cảm ứng, đã qua sử dụng.

- Tịch thu tiêu hủy:

+ 20 (hai mươi) hộp giấy, bên ngoài đều dán giấy màu in chữ nước ngoài và chữ “KS4-49A BRILLIANT BLOOM – 49 SHOTS”, tổng khối lượng 37,1kg.

+ 16 (mười sáu) hộp giấy, bên ngoài đều dán giấy màu in chữ nước ngoài và chữ “KS4-49B BRILLIANT BLOOM – 49 SHOTS”, tổng khối lượng 28,7kg.

+ Vỏ bao gói (01 ba lô màu đen).

Tất cả được niêm phong trong 01 (một) valy màu đỏ và 01 (một) bao xác rắn màu đen có các dấu hình tròn nội dung “CÔNG AN TỈNH GIA LAI – PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ” và các chữ ký ghi họ tên Nguyễn Minh Tâm, Nguyễn Thành Long và Phan Thanh Thế.

Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 06 tháng 9 năm 2023 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ.

Về án phí: Buộc các bị cáo Trần Quan H, Nguyễn Thành D và Hoàng Anh T mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 28/9/2023) để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

13
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội buôn bán hàng cấm số 50/2023/HS-ST

Số hiệu:50/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đăk Pơ - Gia Lai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về