Bản án về tội buôn bán hàng cấm số 163/2021/HS-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 163/2021/HS-PT NGÀY 25/11/2021 VỀ TỘI BUÔN BÁN HÀNG CẤM

Ngày 25/11/2021, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Nghệ An xét xử Phúc thẩm công khai vụ án hình sự Ph thẩm thụ lý số 90/2021/TLPT-HS ngày 07 tháng 4 năm 2021, đối với bị cáo Nguyễn Cảnh S do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 08/2021/HS-ST ngày 01/3/2021 của Toà án nhân dân huyện Y T, tỉnh Nghệ An. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 264/2021/QĐXXPT-HS ngày 12/11/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An.

Bị cáo kháng cáo: Nguyễn Cảnh S, tên gọi khác: không; sinh ngày 16/10/1998; nơi ĐKHKTT và cư trú: Xóm 7, xã X T, huyện Y T, tỉnh Nghệ An; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; ngnghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 11/12; con ông Nguyễn Cảnh S, sinh năm 1966 và con bà Vũ Thị H, sinh năm 1966; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 12/01/2021 đến ngày 21/01/2021 được tại ngoại. Có mặt tại phiên tòa.

Trong vụ án còn có các bị cáo Phan Văn Nh, Trần T A, Nguyễn Thọ C, những người đại diện theo pháp luật cho bị cáo chưa thành niên và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không kháng cáo, không bị kháng nghị, Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 12 giờ 00 phút ngày 08 tháng 01 năm 2021, Phan Văn Nh gặp Nguyễn Bá Ph, sinh ngày 07/8/2005, trú cùng xóm với Nh và nói “anh có 08 bánh pháo đây muốn bán, em có mối mô giới thiệu cho anh”, thì Ph đồng ý. Sau đó Ph đã gặp Lê Văn S, sinh ngày 18/6/2005 nhờ S tìm người mua pháo thì S đồng ý. Sau đó S đã gặp Trần T A, sinh ngày 07/11/2004 nhờ tìm người mua pháo giới thiệu cho S thì T A đồng ý. Trần T A gặp Trần Thọ C và trao đổi lại và nhờ C tìm người mua pháo giới thiệu cho T A thì C đồng ý. Đến khoảng 20 giờ ngày 11/01/2021, Nguyễn Thọ C đang ngồi uống nước với Nguyễn Cảnh S tại ngã tư Nam Thành thuộc xóm Phú Sơn, xã Nam Thành thì tình cờ gặp một người đàn ông không quen biết, người này hỏi Nguyễn Thọ C “có biết ở mô bán pháo không” thì C nói “thằng bạn em bán”. Người này đặt mua 01 bánh pháo loại 36 quả với giá 1.150.000đồng và hẹn giao hàng vào tối ngày 12/01/2021 tại nhà nghỉ Dũng Phát, xã Nam Thành thì C đồng ý. Sau đó C dùng điện thoại nhãn hiệu Realme 5i màu xanh bên trong chứa sim điện thoại số 0987930358 liên lạc với Trần T A đặt mua 01 bánh pháo loại 36 quả thì T A đồng ý. Trần T A sử dụng điện thoại nhãn hiệu OppoA3s màu đen bên trong chứa sim số 0886696038 liên lạc với Lê Văn S đặt mua 01 bánh pháo loại 36 quả thì S đồng ý. Lê Văn S sử dụng điện thoại nhãn hiệu Oppo A5s màu đen bên trong chứa sim số 0353039342 liên lạc với Nguyễn Bá Ph với nội dung có khách cần mua 01 bánh pháo loại 36 quả, có sẵn hàng thì giao luôn, Ph đồng ý và dùng điện thoại nhãn hiệu Iphone 6plus màu vàng bên trong có sim số 0378871846 liên lạc với Phan Văn Nh là đã tìm được khách thì Nh đồng ý và nói giá với Ph là 900.000 đồng một bánh pháo. Sau đó Ph đã liên lạc với Lê Văn S thông báo bánh pháo với giá như trên. Lê Văn S liên lạc với Trần T A rồi T A liên lạc với C với nội dung là 01 bánh pháo giá 950.000đồng thì C đồng ý. Sau đó T A liên lạc với C nói C đưa tiền để lấy pháo, nhưng C nói T A trả tiền trước rồi C nhận pháo và trả tiền sau. Nghe C nói vậy nên T A đã đưa S 900.000 đồng để mua pháo. Đến khoảng 20 giờ 25 phút cùng ngày thì Nh điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Jupiter màu đỏ BKS 3702 – 0610 chở Nguyễn Bá Ph mang theo một bánh pháo đến khu vực gần nhà Lê Văn S ở xóm Yên Thịnh, xã Hậu Thành, Y T. Tại đây Nh đưa cho Lê Văn S 01 bánh pháo và S đưa cho Nh 900.000 đồng. Sau khi lấy được pháo S đem về nhà cất giấu. Đến khoảng 20 giờ 40 phút cùng ngày, người đàn ông đã đặt pháo trước đó quay lại chỗ uống cà phê để gặp C. Tại đây người đàn ông đó lại đặt C mua thêm 06 bánh pháo (loại 36 quả), C đồng ý và nói tổng cộng 07 bánh pháo với giá 8 triệu đồng thì người đàn ông này đồng ý. Sau khi thỏa thuận xong thì hai bên thống nhất sẽ giao hàng vào khoảng 20 giờ 30 phút ngày 12/01/2021 tại nhà nghỉ Dũng Phát thuộc xóm 1, xã Bắc Thành. Chiều ngày 12 tháng 01 năm 2021, Nguyễn Thọ C liên lạc với Trần T A với nội dung đặt mua 07 bánh pháo loại 36 quả và cần giao pháo luôn, T A đồng ý. Sau đó T A liên lạc S với nội dung trên thì S đồng ý, S liên lạc với Nguyễn Bá Ph cũng với nội dung trên thì Ph đồng ý, Nguyễn Bá Ph liên lạc với Phan Văn Nh về việc mua thêm 07 bánh pháo thì Nh nói giá 950.000 đồng một bánh pháo. Sau đó Ph liên lạc lại với S, S lại liên lạc với Trần T A, T A liên lạc với Nguyễn Thọ C với nội dung giá một bánh pháo là 950.000 đồng thì C đồng ý. Đến khoảng 18 giờ 30 phút ngày 12/01/2021, Nguyễn Thọ C đến nhà Nguyễn Cảnh S rủ Nguyễn Cảnh S chở đi mua pháo về bán lại kiếm lời thì S đồng ý. S điều khiển xe máy nhãn hiệu Yamaha Exciter màu xanh đen BKS 37P1 - 646.52 mượn của chị Nguyễn Thị Sương sinh năm 2001 để chở C đi gặp người bán pháo. Trên đường đi C nói với S là khi bán pháo xong có tiền lời sẽ chia cho S một nửa thì S đồng ý. Nguyễn Thọ C và Nguyễn Cảnh S đến gặp Trần T A, T A gọi điện cho Lê Văn S ra gặp C và S. Tại đây C đưa cho T A 500.000đồng là tiền công giới thiệu mua bán pháo. Sau đó T A, C, S đi với Lê Văn S, S liên lạc với Nguyễn Bá Ph đến địa điểm giao dịch mua bán pháo. Đến khoảng 20 giờ 30 phút cùng ngày Phan Văn Nh điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Jupiter màu đỏ BKS 37U2- 0610 chở Nguyễn Bá Ph mang theo 01 bao xác rắn màu trắng bên trong có 07 bánh pháo loại 36 quả đưa cho Nguyễn Thọ C, C kiểm tra pháo xong thì nói với Nh là khi nào bán pháo xong sẽ giao tiền cho Nh thì Nh đồng ý. Sau đó S điều khiển xe mô tô chở Nguyễn Thọ C cùng số pháo mua được đi về phía nhà nghỉ Dũng Phát ở xóm 1, xã Bắc Thành để bán pháo. Khi cả hai đi đến địa điểm giao pháo nhưng chưa kịp bán pháo thì bị công an huyện Y T phát hiện bắt quả tang, thu giữ 01 bao bì xác rắn màu trắng bên trong có chứa 07 khối hình hộp chữ nhật có kích thước giống nhau (14x14x10)cm, bên ngoài mỗi khối hình hộp được bọc giấy ni lông có ghi chữ nước ngoài, hình ảnh pháo nổ cháy S nhiều màu sắc và có kí hiệu là A8407. Cùng ngày Cơ quan điều tra công an huyện Y T khám xét chỗ ở của Lê Văn S và thu giữ 01 bánh pháo có kích thước và đặc điểm như số pháo thu giữ của C và S.

Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng ngày 12/01/2021 xác định 07 khối hình hộp chữ nhật có kích thước giống nhau (14x14x10)cm, có kí hiệu là A8407 thu giữ của Nguyễn Thọ C và Nguyễn Cảnh S có khối lượng 09 kg.

Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng ngày 13/01/2021 xác định 01 khối hình hộp chữ nhật có kích thước (14x14x10)cm, có kí hiệu là A8407 thu giữ của Lê Văn S có khối lượng 1,2 kg.

Quá trình điều tra Phan Văn Nh khai nhận: Ngày 15/6/2020 Nh đã mua 08 bánh pháo có đặc điểm như trên của Nguyễn Bá Trung sinh năm 1991 trú cùng xóm với Nh với giá 750.000đồng/bánh pháo để bán kiếm lời.

Tại bản kết luận số 101/KL-PC09 và kết luận số 102/KL-PC09 ngày 19/01/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận: Mẫu vật thu giữ của Nguyễn Thọ C và Nguyễn Cảnh S, Lê Văn S gửi tới giám định là pháo, là loại pháo nổ.

Bản án hình sự sơ thẩm số 51/2021/HS-ST ngày 28/5/2021 của Tòa án nhân dân huyện Y T, tỉnh Nghệ An đã quyết định:

Tuyên bố các bị cáo Phan Văn Nh, Nguyễn Cảnh S, Trần T A, Nguyễn Thọ C phạm tội “Buôn bán hàng cấm”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 190; điểm s khoản 1, 2 điều 51, điều 65 BLHS. Xử phạt bị cáo Phan Văn Nh 14 (mười bốn) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 28 (hai mươi tám) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 190; điểm s khoản 1, 2 điều 51, điều 91, điều 101, điều 65 BLHS. Xử phạt bị cáo Trần T A 09 (chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 (mười tám) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 190; điểm s khoản 1, 2 điều 51, điều 91, điều 101, điều 65 BLHS. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thọ C 09 (chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 (mười tám) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Áp dụng điểm c khoản 1 điều 190, điểm s khoản 1 Điều 51, điều 38 BLHS. Xử phạt bị cáo Nguyễn Cảnh S 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án nhưng được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 12/01/2021 đến ngày 21/01/2021.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên chế định về án treo, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo của các bị cáo.

Ngày 09/6/2021, bị cáo Nguyễn Cảnh S kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt và cho hưởng án treo.

Tại phiên tòa, bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo và cho rằng: Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 12 tháng tù là quá nặng. Bị cáo phạm tội lần đầu, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, gia đình thuộc hộ cận nghèo, Bản thân bị cáo đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự trở về địa phương chấp hành tốt mọi quy định của địa phương và pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An sau khi phân tích toàn bộ nội dung vụ án, nội dung kháng cáo của bị cáo có quan điểm giải quyết vụ án:

Về tố tụng: Đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Cảnh S làm trong hạn luật định, nội dung và hình thức đơn kháng cáo phù hợp với quy định của pháp luật. Do đó được xem xét theo trình tự xét xử Ph thẩm.

Về nội dung: Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355, điểm e khoản 1 Điều 357 của Bộ luật tố tụng Hình sự.

Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Nguyễn Cảnh S, sửa bản án sơ thẩm, giữ nguyên mức hình phạt, cho bị cáo được hưởng án treo.

Áp dụng điểm c khoản 1 điều 190, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Cảnh S 12 (mười hai) tháng tù cho hưởng án treo, thử thách 24 tháng về tội “Buôn bán hàng cấm”.

Bị cáo không phải chịu án phí hình sự Ph thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Cảnh S làm trong hạn luật định, nội dung và hình thức đơn kháng cáo phù hợp với quy định của pháp luật. Do đó được xem xét theo trình tự xét xử Ph thẩm.

[2] Về nội dung: Tại phiên tòa Ph thẩm bị cáo Nguyễn Cảnh S đã khai nhận khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình có nội dung phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra và tại phiên toà sơ thẩm, phù hợp với lời khai của các bị cáo khác, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Do đó có đủ căn cứ kết luận: Vào khoảng 20 giờ 30 phút ngày 12 tháng 01 năm 2021 tại khu vực nhà nghỉ Dũng Phát ở xóm 1, xã Bắc Thành, huyện Y T, tỉnh Nghệ An, bị cáo Nguyễn Thọ C và bị cáo Nguyễn Cảnh S có hành vi mang 07 bánh pháo nổ có khối lượng 09 kg đang đi bán thì bị bắt quả tang. Quá trình điều tra cơ quan điều tra thu giữ tại nhà của Lê Văn S 01 bánh pháo có đặc điểm tương tự như 07 bánh pháo thu giữ ở trên có khối lượng 1,2kg. Quá trình điều tra Trần T A và Phan Văn Nh khai nhận: Do quen biết nhau từ trước nên Phan Văn Nh đã nhờ Nguyễn Bá Ph, Nguyễn Bá Ph lại liên hệ với Lê Văn S, S lại liên lạc với Trần T A, Trần T A liên lạc với Nguyễn Thọ C đr mua bán pháo, C rủ Nguyễn Cảnh S chở đi mua bán pháo kiếm lời. Khi các bị cáo Nguyễn Thọ C và Nguyễn Cảnh S đang đi giao 07 bánh pháo nổ có khối lượng 9 kg đến điểm hẹn thì bị bắt quả tang. Hành vi của các bị cáo đã phạm tội “Buôn bán hàng cấm”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 190 của Bộ luật hình sự như bản án sơ thẩm đã xét xử là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[3] Xét kháng cáo của bị cáo:

Tòa án cấp sơ thẩm đưa vụ án ra xét xử đã xem xét nhân thân, vai trò của các bị cáo, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là khai báo thành khẩn để xử phạt bị cáo Nguyễn Cảnh S với mức án 12 tháng tù về tội “Buôn bán hàng cấm” là đúng quy định của pháp luật. Không có căn cứ cho bị cáo hưởng mức án dưới mức thấp nhất của khung hình phạt. Do đó, không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo.

Nhưng xét, bị cáo là quân nhân mới hoàn thành nghĩa vụ quân sự ngày 10/01/2020, sau khi xuất ngũ luôn chấp hành các chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Tham gia hoạt động tích cực các phong trào của các đoàn thể, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ công dân nơi cư trú, gia đình thuộc hộ cận nghèo, đây là tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự chưa được xem xét tại cấp sơ thẩm. Xét thấy, bị cáo có nhân thân tốt, phạm tội đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án, có khả năng tự cải tạo và việc cho hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội; không gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Do đó, chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm, giữ nguyên mức hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo. Giao bị cáo cho chính quyền địa phương giám sát, giáo dục cũng đủ mức răn đe và phòng ngừa chung.

Bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, gia đình thuộc hộ cận nghèo, Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo là đúng quy định của pháp luật.

[4] Về án phí: Bị cáo kháng cáo được chấp nhận một phần nên không phải chịu án phí hình sự Ph thẩm.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 355; điểm e khoản 1 Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự. Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Nguyễn Cảnh S. Sửa bản án sơ thẩm, giữ nguyên mức hình phạt tù, cho bị cáo được hưởng án treo.

2. Căn cứ điểm c khoản 1 điều 190, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Cảnh S 12 (mười hai) tháng tù cho hưởng án treo, thử thách 24 tháng về tội “Buôn bán hàng cấm”. Thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án Ph thẩm.

Giao bị cáo Nguyễn Cảnh S cho Uỷ ban nhân dân xã X T, huyện Y T, tỉnh Nghệ An giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo điều 92 Luật thi hành án Hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Cảnh S không phải chịu án phí hình sự Phúc thẩm.

4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án Ph thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

54
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội buôn bán hàng cấm số 163/2021/HS-PT

Số hiệu:163/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về