Bản án về tội buôn bán hàng cấm số 110/2022/HSPT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 110/2022/HSPT NGÀY 22/08/2022 VỀ TỘI BN BÁN HÀNG CẤM

Ngày 22 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 92/2022/HSPT ngày 20 tháng 7 năm 2022 đối với bị cáo Nguyễn Văn T và Dương Đình Tuấn A, do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 42/2022/HS-ST ngày 09/6/2022 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Hà Tĩnh.

* Bị cáo kháng cáo:

1. Họ và tên: Nguyễn Văn T; Sinh ngày 16/4/2002 tại xã T, huyện T, Tỉnh Hà Tĩnh; Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn Q, xã T, huyện T, tỉnh Hà Tĩnh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: Lớp 09/12; Nghề nghiệp: Phụ xe khách; Con ông Nguyễn Văn T - Sinh năm 1963; Con bà Trần Thị V - Sinh năm 1975; Anh chị em ruột: Có 03 người, bị cáo là con thứ hai; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt khẩn cấp và tạm giữ từ ngày 23/01/2022, đến ngày 26/01/2022 được thay thế bằng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện đang trú tại xã T, huyện T, tỉnh Hà Tĩnh. (Có mặt) 2. Họ và tên: Dương Đình Tuấn A; Sinh ngày 09/7/2005 tại xã T, huyện Th, tỉnh Hà Tĩnh. Tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội bị cáo 16 tuổi 06 tháng 11 ngày; Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn Đ, xã T, huyện T, tỉnh Hà Tĩnh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: Lớp 11/12; Nghề nghiệp: Học sinh; Con ông Dương Đình T - Sinh năm 1978; Con bà Dương Thị N - Sinh năm 1982; Anh chị em ruột: Có 02 người, bị cáo là con thứ nhất; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 23/01/2022, đến ngày 26/01/2022 được thay thế bằng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện đang trú tại xã T, huyện T, tỉnh Hà Tĩnh. (Có mặt) * Người đại diện hợp pháp cho bị cáo Dương Đình Tuấn A: Ông Dương Đình T, sinh năm 1978; Địa chỉ cư trú: Thôn Đ, xã T, huyện T, tỉnh Hà Tĩnh, Nghề nghiệp: Làm ruộng. (Có mặt) * Người bào chữa cho bị cáo Dương Đình Tuấn Anh: Ông Nguyễn Khánh T - Trợ giúp viên pháp lý Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Hà Tĩnh.

(Vắng mặt – Tại phiên toà phúc thẩm bị cáo và người đại diện có đơn từ chối người bào chữa).

Trong vụ án còn có người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và người tham gia tố tụng khác nhưng không liên quan đến nội dung kháng cáo của bị cáo nên toà án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong đầu tháng 01/2022, Nguyễn Văn T, sinh năm 2002; trú tại thôn Q, xã T, huyện T, tỉnh Hà Tĩnh lên mạng internet tìm hiểu và biết được có tài khoản Facebook mang tên “Thu Hoài”, đăng bán pháo ở tỉnh Quảng Trị. Do T làm nghề phụ xe cho nhà xe K (có địa chỉ tại số 123, đường V, thành phố H) chạy tuyến Hà Tĩnh - Huế nên T nảy sinh ý định mua pháo về bán trong dịp tết Nguyên Đán 2022 để kiếm lời. Để thực hiện hành vi trên, Nguyễn Văn T đã rủ thêm bạn là Dương Đình Tuấn A; sinh năm 2005, trú tại thông Đ, xã T, huyện T, tỉnh Hà Tĩnh chung tiền mua pháo về bán, cả hai thống nhất T sẽ chịu trách nhiệm đặt mua pháo ở Quảng Trị, khi nhập pháo về có người mua thì T là người giao hàng và nhận tiền, số tiền lời lãi sẽ chia đều cho nhau; thống nhất giá bán pháo là 1.500.000 đồng/1 hộp loại 49 quả và 1.000.000 đồng/1 hộp loại 36 quả; Với phương thức trên từ 20/01/2022 đến 23/01/2022, T và T đã 02 lần thực hiện việc mua pháo về bán kiếm lời, cụ thể như sau:

- Lần thứ nhất: Vào tối ngày 20/01/2022 Nguyễn Văn T sử dụng Facebook “Nguyễn T” thông qua ứng dụng Messenger gọi cho người có tên Facebook “Thu Hoài” để đặt mua 05 hộp pháo loại 36 quả và 02 hộp pháo loại 49 quả. Người này đồng ý và thống nhất giá bán là 900.000 đồng/01 hộp loại 36 quả và 1.100.000 đồng/01 hộp loại 49 quả; hai bên hẹn giao nhận hàng ở một cây xăng dầu gần trạm vé Đ, tỉnh Quảng Trị. Đến khoảng 00 giờ, ngày 21/01/2022, khi xe ô tô do T làm phụ xe đi gần đến điểm hẹn thì T gọi cho người có tên “Thu Hoài” qua Messenger đem pháo ra cho T. Một lúc sau có một người đàn ông lạ mặt (T không quen biết và cũng không nhớ đặc điểm cụ thể của người này) đưa đến cho T một thùng cattong dán kín. T biết trong đó có pháo nên trả cho người này 6.700.000 đồng mà không mở thùng cattong ra kiểm tra. T để thùng cattong vào gầm xe Khánh T và lên xe đi về. Khoảng 03 giờ 50 phút cùng ngày, Nguyễn Văn T dùng điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu đen, có số thuê bao 0911.327.779 của nhà xe Khánh T gọi vào số điện thoại 0705.951.150 của Dương Đình Tuấn A nói 04 giờ sáng ngày 21/01/2022 xe về đến phòng vé nhà xe Khánh Truyền ở số 123 đường V, thành phố H và bảo Tuấn A đến đó lấy pháo. Khoảng 04 giờ ngày 21/01/2022, Dương Đình Tuấn A điều khiển xe máy điện nhãn hiệu X-men, màu đen, không có biển kiểm soát (xe của ông Dương Đình T - bố Tuấn A) đến gặp Thắng nhận thùng cattong đựng 07 hộp pháo mà T đã mua từ tỉnh Quảng Trị. Tuấn A đưa cho T 3.500.000 đồng là số tiền Tuấn A góp để mua pháo cùng với Th rồi chở số pháo trên về nhà mình.

Sau khi mang số pháo nói trên về thì Tuấn A cất dấu tại nhà mình 01 hộp loại 49 quả; cất dấu tại nhà bà ngoại Nguyễn Thị L, sinh năm 1947, trú tại thôn Đ, xã T, huyện T 05 hộp pháo loại 36 quả; còn 01 hộp pháo loại 49 quả Tuấn A và T thống nhất bán cho Hồ Sỹ H, sinh năm 1992, trú tại thôn Đ, xã T, huyện T (H đặt mua trước đó với T) với giá 1.500.000 đồng (Tuấn A giao pháo và nhận tiền từ H). Hiệp dấu pháo trong phòng ngủ của mình nhằm mục đích sử dụng vào dịp tết Nguyên Đán 2022.

- Lần thứ hai: Tối ngày 22/01/2022, Nguyễn Văn T tiếp tục sử dụng Facebook “Nguyễn T” thông qua ứng dụng Messenger gọi cho tài khoản Facebook có tên “Thu Hoài” để đặt mua 05 hộp pháo loại 36 quả thì người này đồng ý và hẹn đến địa điểm cũ để lấy pháo. Đến khoảng 23 giờ 30 phút cùng ngày, T đi đến chỗ cũ để lấy pháo từ người đàn ông lạ mặt như lần trước, T thanh toán cho người này 4.500.000 đồng, cất pháo vào gầm xe Khánh T rồi lên xe đi về Hà Tĩnh. Sáng sớm ngày 23/01/2022 T liên hệ và bán cho Lưu Văn T, sinh năm 1993, trú tại thôn Đ, xã T, huyện T 02 hộp pháo loại 36 quả, T nói T đưa cho Tuấn A 2.000.000 đồng thì Tuấn A sẽ giao pháo cho T. Sau đó T sử dụng số điện thoại 0911.327.779 của nhà xe Khánh T gọi vào số thuê bao 0705.951.150 của Tuấn A nhưng Tuấn A không nghe máy, sau đó Tuấn A sử dụng tài khoản Facebook có tên “Anh T” gọi lại cho T qua tài khoản Facebook “Nguyễn T” thì Thắng nói “Xuống T Đán lấy hai triệu rồi xuống nhà xe Khánh T lấy hàng về”. Đến khoảng hơn 07 giờ, ngày 23/01/2022, Tuấn A điều khiển xe máy điện nhãn hiệu X-men, màu đen, không có biển kiểm soát đến nhà Lưu Văn T lấy 2.000.000 đồng, rồi qua nhà Dương Công M, sinh năm 2003, trú tại thôn Đ, xã T, huyện T rủ M đi cùng để lấy pháo (do trước đó, vào tối ngày 22/01/2022 Dương Công M có đặt mua 01 hộp pháo loại 36 quả của Tuấn A và đã thanh toán số tiền 1.000.000 đồng). Đến khoảng 08 giờ 30 phút, khi, M vẫn ngồi trên xe còn Tuấn A đến lấy pháo đựng trong thùng cattong từ Nguyễn Văn T. T đưa cho Tuấn A thùng cattong đựng 05 hộp pháo lại 36 quả; Tuấn A đưa cho T 2.900.000 đồng là tiền góp mua pháo cùng với 2.000.000 đồng Tuấn A lấy từ Lưu Văn T, số tiền còn thiếu T sẽ bù vào. Dương Đình Tuấn A đưa thùng cattong chứa 05 hộp pháo này ra xe máy điện rồi điều khiển xe máy điện chở Dương Công M đi về, khi về đến đoạn đường nối từ xã T đến xã Thạch X thuộc thôn Đ, xã Thạch X, huyện T thì bị Công an huyện T phát hiện bắt quả tang. Lực lượng Công an thu giữ 01 thùng cattong chứa 05 khối hộp hình chữ nhật, mỗi khối hộp có kích thước (14x14x12) cm, bên ngoài mỗi khối hộp được bọc giấy hoa văn nhiều màu sắc và chữ nước ngoài, cùng các đồ vật, tài liệu liên quan.

Căn cứ vào lời khai của Dương Đình Tuấn A, CQCSĐT Công an huyện T tiến hành giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Nguyễn Văn T. Đồng thời khám xét khẩn cấp nhà ở của T. Quá trình khám xét, phát hiện, thu giữ trong phòng bếp nhà Tuấn A một thùng cáttông, bên trong chứa 01 khối hộp hình chữ nhật có kích thước (16x16x9,5) cm, bên ngoài khối hộp được bọc giấy hoa văn nhiều màu sắc và chữ nước ngoài. Ngoài ra Tuấn A còn giao nộp 05 khối hộp hình chữ nhật, mỗi khối hộp có kích thước (14x14x12) cm, bên ngoài mỗi khối hộp được bọc giấy hoa văn nhiều màu sắc và chữ nước ngoài đựng trong 01 thùng cattong mà Tuấn A cất dấu ở nhà bà ngoại là bà Nguyễn Thị L tại thôn Đ, xã T, huyện T. Hồ Sỹ H cũng tự nguyện giao 01 khối hộp hình chữ nhật có kích thước (16x16x9,5) cm, bên ngoài khối hộp được bọc giấy hoa văn nhiều màu sắc và chữ nước ngoài.

Tại CQCSĐT Công an huyện T, Nguyễn Văn T và Dương Đình Tuấn A đã khai nhận toàn bộ số pháo nói trên là do T và Tuấn A góp tiền mua về để bán kiếm lời.

Ngày 24/01/2022, CQCSĐT Công an huyện T đã ra Quyết định Trưng cầu giám định số 25/CSĐT đến phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Tĩnh yêu cầu giám định đối với 12 khối hộp hình chữ nhật thu giữ từ Dương Đình Tuấn A và Hồ Sỹ H. Tại bản Kết luận giám định số 82/GĐP-PC09 ngày 26/01/2022 của phòng Kỹ thuật hình sự, kết luận:

- 05 hộp khối hình chữ nhật, mỗi khối hộp có cùng kích thước là (14x14x12)cm, bên ngoài có bọc giấy nhiều màu sắc in hoa văn và chữ nước ngoài, bên trong mỗi khối hộp có 36 vật hình trụ bọc giấy liên kết với nhau thu trong lúc bắt quả tang đối tượng Dương Đình Tuấn A và Dương Công M gửi giám định là pháo có đầy đủ đặc tính của pháo nổ (có chứa thuốc pháo và khi bị kích thích hoặc đốt có gây tiếng nổ), có khối lượng là 6,9kg.

- 05 hộp khối hình chữ nhật, mỗi khối hộp có cùng kích thước là (14x14x12)cm, bên ngoài có bọc giấy nhiều màu sắc in hoa văn và chữ nước ngoài, bên trong mỗi khối hộp có 36 vật hình trụ bọc giấy liên kết với nhau (số pháo cất dấu tại nhà bà Nguyễn Thị L) gửi giám định là pháo có đầy đủ đặc tính của pháo nổ (có chứa thuốc pháo và khi bị kích thích hoặc đốt có gây tiếng nổ), có khối lượng là 07kg.

- 01 hộp khối hình chữ nhật, mỗi khối hộp có cùng kích thước là (16x16x9,5)cm, bên ngoài có bọc giấy nhiều màu sắc in hoa văn và chữ nước ngoài, bên trong mỗi khối hộp có 49 vật hình trụ bọc giấy liên kết với nhau thu trong lúc bắt khám xét nhà đối tượng Dương Đình Tuấn A gửi giám định là pháo có đầy đủ đặc tính của pháo nổ (có chứa thuốc pháo và khi bị kích thích hoặc đốt có gây tiếng nổ), có khối lượng là 1,7kg.

- 01 hộp khối hình chữ nhật, mỗi khối hộp có cùng kích thước là (16x16x9,5)cm, bên ngoài có bọc giấy nhiều màu sắc in hoa văn và chữ nước ngoài, bên trong mỗi khối hộp có 49 vật hình trụ bọc giấy liên kết với nhau do đối tượng Hồ Sỹ H tự nguyện giao nộp gửi giám định là pháo có đầy đủ đặc tính của pháo nổ (có chứa thuốc pháo và khi bị kích thích hoặc đốt có gây tiếng nổ), có khối lượng là 1,7kg. Tổng trọng lượng toàn bộ số pháo thu giữ trong vụ án trên là 17,3kg .

* Vật chứng của vụ án gồm: 10 khối hộp hình chữ nhật, mỗi khối hộp có kích thước (14x14x12)cm, bên ngoài mỗi khối hộp được bọc giấy nhiều màu sắc in hoa văn và chữ nước ngoài, là pháo nổ, có khối lượng 13,74 kg (sau khi trích mẫu giám định 0,16 kg không hoàn lại); 02 khối hộp hình chữ nhật, mỗi khối hộp có kích thước (16x16x9,5)cm, bên ngoài được bọc giấy nhiều màu sắc in hoa văn và chữ nước ngoài, có khối lượng 3,26 kg (sau khi trích mẫu giám định 0,14 kg không hoàn lại);

01 xe máy điện nhãn hiệu X-men, màu đen, đã qua sử dụng, không có biển kiểm soát, số khung RPBYBTPVNKVM03172; số máy HFT60V800WE1190800337; 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, màu đỏ, có số IMEI 1: 865566044141590; số IMEI 2: 8655566044141582, gắn thẻ sim có số thuê bao 0837.077.249, đã qua sử dụng thu của Nguyễn Văn T; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6, màu xám, có số IMEI 354448061909225, gắn thẻ sim có số thuê bao 0705.951.150, màn hình bị vỡ, đã qua sử dụng thu của Dương Đình Tuấn A; 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, màu hồng, có số IMEI 1: 866179033403499; số IMEI 2: 866179033403481, gắn thẻ sim có số thuê bao 0356.748.586, đã qua sử dụng thu của Dương Công Mỹ; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Redmi, màu đen, số Model: M1810F6LG, đã bị vỡ màn hình, tình trạng không còn hoạt động thu của Hồ Sỹ H; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel Juno Q5, màu vàng, đã bị vỡ màn hình, tình trạng không còn hoạt động thu của Lưu Văn T; 03 thùng cattong, đã qua sử dụng.

Ngày 20/4/2022, xét thấy không ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ án nên CQCSĐT Công an huyện T đã trả lại chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, màu hồng, gắn thẻ sim có số thuê bao 0356.748.586, đã qua sử dụng cho Dương Công M; trả lại 01 xe máy điện nhãn hiệu X-men, màu đen, đã qua sử dụng, không có biển kiểm soát cho chủ sở hữu hợp pháp là ông Dương Đình T, sinh năm 1978, trú tại thôn Đ, xã T, huyện T, tỉnh Hà Tĩnh.

Số vật chứng còn lại hiện đang được Chi cục Thi hành án dân sự huyện T quản lý theo quy định.

Đi với số tiền 4.500.000 đồng mà các bị cáo bán pháo thu được, CQCSĐT Công an huyện T đã yêu cầu các bị cáo nộp lại theo quy định, tuy nhiên đến nay các bị cáo vẫn chưa nộp lại số tiền này.

Với hành vi nêu trên, tại bản án số 42/2022/HS-ST ngày 09/6/2022 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Hà Tĩnh đã Quyết định:

1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn T và Dương Đình Tuấn A phạm tội “Buôn bán hàng cấm”.

2. Về hình phạt:

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 190, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm o, g khoản 1 Điều 52, Điều 38, Điều 17, Điều 58, BLHS xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 23/01/2022 đến 26/01/2022.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 190, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g, khoản 1 Điều 52, Điều 17, Điều 58, Điều 38, Điều 90, Điều 91, Điều 101 BLHS xử phạt bị cáo Dương Đình Tuấn A 09(chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 23/01/2022 đến 26/01/2022.

- Về hình phạt bổ sung: Áp dụng khoản 4 Điều 190, Điều 35 BLHS phạt bổ sung bị cáo Nguyễn Văn T số tiền 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng). Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Dương Đình Tuấn A.

Án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí, quyền kháng cáo của bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan theo quy định của pháp luật.

Ngày 16/6/2022 bị cáo Nguyễn Văn T có đơn kháng cáo xin được hưởng án treo.

Ngày 16/6/2022 bị cáo Dương Đình Tuấn A có đơn kháng cáo xin được hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Nguyễn Văn T và Dương Đình Tuấn A vẫn giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh sau khi phân tích, đánh giá tính chất của vụ án, hành vi phạm tội của bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 355, Điều 356, điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn T, giữ nguyên Bản án sơ thẩm số 42/2022/HS-ST ngày 09/6/2022 của Tòa án nhân dân huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh đối với bị cáo Th. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Dương Đình Tuấn A, sửa Bản án sơ thẩm số 42/2022/HS-ST ngày 09/6/2022 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Hà Tĩnh đối với bị cáo Dương Đình Tuấn A, cho bị cáo được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Kháng cáo của các bị cáo trong hạn luật định nên hợp lệ được chấp nhận xem xét theo thủ tục phúc thẩm. [2] Về nội dung:

[2.1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Văn T và Dương Đình Tuấn A đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với bản án sơ thẩm và các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Do đó đủ cơ sở kết luận: Lợi dụng nhu cầu sử dụng pháo trái phép dịp tết nguyên đán 2022, trong khoảng thời gian từ ngày 20/01/2022 đến 23/01/2022 Nguyễn Văn T và Dương Đình Tuấn A đã 02 lần góp tiền mua 12 hộp pháo nổ có tổng trọng lượng là 17,3 kg từ một người có tên Facebook “Thu H” ở Quảng Trị về bán cho 03 đối tượng là Lưu Văn T, Dương Công M và Hồ Sỹ H. Do đó, việc Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo về tội “Buôn bán hàng cấm” theo khoản 1 Điều 190 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, không oan sai.

[2.2] Xét nội dung kháng cáo của các bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng:

Đi với bị cáo Nguyễn Văn T là người giữ vai trò chính trong vụ án, khởi xướng và rủ rê lôi kéo bị cáo Dương Đình Tuấn A góp tiền mua pháo về bán kiếm lời và cũng chính bị cáo là người trực tiếp liên hệ người có tên Facebook “Thu H” để mua pháo về bán cho Hồ Sỹ H, Lưu Văn T và thông qua Dương Đình Tuấn A bán pháo cho Dương Công M; bị cáo có hai tình tiết tăng nặng là “phạm tội 2 lần trở lên” và “xúi dục người chưa thành niên phạm tội”. Quá trình xét xử cấp sơ thẩm đã áp dụng cho bị cáo tình tình giảm nhẹ: “Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cãi” quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tại cấp phúc thẩm bị cáo không xuất trình được tình tiết giảm nhẹ nào mới để Hội đồng xét xư xem xét. Xét tính chất hành vi phạm tội, vai trò vị trí của bị cáo trong vụ án thì mức hình phạt cấp sơ thẩm áp dụng đối với bị cáo là phù hợp, vì vậy không có căn cứ để xem xét theo nội dung kháng cáo của bị cáo.

Đi với bị cáo Dương Đình Tuấn A là người góp tiền cùng T để mua pháo và khi có pháo chuyển về thì Tuấn A là người trực tiếp giao pháo và nhận tiền từ người mua. Tuy nhiên, bản thân bị cáo Dương Đình Tuấn A tại thời điểm phạm tội và xét xử là người chưa thành niên, nhận thức pháp luật hạn chế. Tại cấp sơ thẩm và tại phiên toà phúc thẩm bị cáo thành khẩn khai báo ăn năn hối cải. Tại cấp phúc thẩm bị cáo xuất trình thêm tình tiết mới là Đơn trình bày hoàn cảnh và xin được hưởng án treo có xác nhận và đề nghị xem xét của UBND xã T, đây là các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điếu 51 Bộ luật hình sự.

Hi đồng xét xử nhận thấy, bị cáo Dương Đình Tuấn A là người có nhân thân tốt, có nơi cư trú ổn định, được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; khi thực hiện hành vi phạm tội và tại phiên toà bị cáo đang ở tuổi vị thành niên, bị rủ rê lôi kéo, nên được áp dụng các quy định tại chương XII Bộ luật hình sự về xử lý hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Vì vậy, xét thấy không cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà cần thay đổi biện pháp chấp hành hình phạt tù, cho bị cáo được hưởng án treo, tạo điều kiện để bị cáo được cải tạo giáo dục tại địa phương, để tiếp tục học tập, nhằm thể hiện sự khoan hồng và tính nhân đạo của pháp luật đối với bị cáo.

[3] Về án phí: Căn cứ 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, điểm b, h khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án, kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn T không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm; kháng cáo của bị cáo Dương Đình Tuấn A được chấp nhận nên bị cáo không phải chịu án phí phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a, b khoản 1, khoản 2 Điều 355; Điều 356; điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự:

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn T, giữ nguyên hình phạt của Bản án sơ thẩm số 42/2022/HSST ngày 09/6/2022 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Hà Tĩnh đối với bị cáo Nguyễn Văn T.

Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Dương Đình Tuấn A, sửa Bản án sơ thẩm số 42/2022/HSST ngày 09/6/2022 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Hà Tĩnh vê phần hình phạt đối với Dương Đình Tuấn A, tuyên xử:

1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn T và Dương Đình Tuấn A phạm tội “Buôn bán hàng cấm”.

2. Về hình phạt:

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 190, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm o, g khoản 1 Điều 52, Điều 38, Điều 17, Điều 58, Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án, nhưng bị cáo được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 23/01/2022 đến 26/01/2022.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 190, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 17, Điều 58, Điều 38, điều 65, Điều 90, Điều 91, Điều 101 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Dương Đình Tuấn A 09 (Chín) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 (Mười tám) tháng, tính từ ngày tuyên án phúc thẩm.

Giao bị cáo Dương Đình Tuấn Ạ cho UBND xã T, huyện T, tỉnh Hà Tĩnh giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách án treo. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật thi hành án hình sự 2019.

Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Nếu người được hưởng án treo thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 Bộ luật hình sự. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật Thi hành án hình sự.

- Về hình phạt bổ sung: Áp dụng khoản 4 Điều 190, Điều 35 Bộ luật hình sự phạt bổ sung bị cáo Nguyễn Văn T số tiền 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng). Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Dương Đình Tuấn A.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm b, h khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án: Buộc bị cáo Nguyễn Văn T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm. Bị cáo Dương Đình Tuấn A không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

274
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội buôn bán hàng cấm số 110/2022/HSPT

Số hiệu:110/2022/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về