Bản án về tội buôn bán hàng cấm số 06/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN ĐỊNH, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 06/2022/HS-ST NGÀY 14/01/2022 VỀ TỘI BUÔN BÁN HÀNG CẤM

Trong ngày 14 tháng 01 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 72/2021/TLST-HS ngày 16 tháng 12 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 71/2021/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 12 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Phạm Thị T, tên gọi khác: Không, sinh ngày: 02/10/1990, tại xã X, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa. Nơi cư trú: Thôn Đ, xã X, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Phạm Văn C (đã chết); Con bà: Đỗ Thị Hl, sinh năm 1959; Gia đình bị cáo có 04 chị em, bị cáo là con thứ ba; Bị cáo có chồng là Trần Doãn G, sinh năm 1990; Có 02 con, con lớn sinh năm 2012, con nhỏ sinh năm 2019; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 18/10/2021 đến ngày 21/10/2021, sau đó bị áp dụng biện pháp ngăn chặn là cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến nay. Bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên: Lê Thị H, tên gọi khác: Không, sinh ngày: 28/9/1991, tại xã S, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Nơi cư trú: Thôn N, xã L, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lê Thế Tr, sinh năm 1951; Con bà: Lê Thị U, sinh năm 1953; Gia đình bị cáo có 05 anh em, bị cáo là con út; Bị cáo có chồng là Trần Văn H2, sinh năm 1986; Có 02 con, con lớn sinh năm 2015, con nhỏ sinh năm 2019; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 18/10/2021 đến ngày 21/10/2021, sau đó bị áp dụng biện pháp ngăn chặn là cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến nay. Bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa.

- Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1- Anh Trần Doãn G, sinh năm: 1990. Có mặt.

Địa chỉ: Thôn Đ, xã X, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa.

2- Anh Lê Thế B, sinh năm: 1975. Có mặt.

Địa chỉ: số 25 O, phường ĐC, TP. Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa.

- Những người làm chứng:

1- Bà Đỗ Thị H1, sinh năm: 1959. Có mặt.

Địa chỉ: Thôn PC, xã X, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa.

2- Ông Trần Văn C1, sinh năm: 1953. Có mặt.

Địa chỉ: Thôn N, xã L, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa.

3- Anh Trần Văn C2, sinh năm: 1979. Vắng mặt.

Địa chỉ: Thôn N, xã L, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa.

4- Ông Ngô Văn H2, sinh năm: 1962. Vắng mặt.

Địa chỉ: Thôn N, xã L, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ 18/10/2021, Tổ công tác của Đội chống buôn lậu Phòng Cảnh sát kinh tế Công an tỉnh Thanh Hóa đang làm nhiệm vụ trên địa bàn xã L, huyện Yên Định, nhận được tin báo của quần chúng nhân dân về việc Lê Thị H có hành vi vận chuyển thuốc lá điếu nhập lậu. Đến 15 giờ 30 phút cùng ngày, Công an tỉnh Thanh Hóa đã phối hợp với Công an xã L kiểm tra, phát hiện Lê Thị H đang vận chuyển 02 thùng cát tông, bên trong có chứa 84 cây thuốc lá điếu = 840 bao (gồm: 18 cây =180 bao nhãn hiệu ESSE LIGHTS màu trắng xanh, 29 cây = 290 bao nhãn hiệu ESSE MENTHOL màu trắng xanh và 37 cây = 370 bao nhãn hiệu ESSE CLASSIC màu trắng hồng), không có giấy tờ chứng minh nguồn gốc. Lực lượng Công an đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với H, thu giữ của H 01 xe mô tô Yamaha Acruzo màu xanh biển kiểm soát 36B5-994.37, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu xanh và 840 bao thuốc lá nêu trên. Tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của H thu giữ 100 cây thuốc lá điếu = 1.000 bao (gồm: 50 cây = 500 bao nhãn hiệu 555 BLEND NO.555 ORIGINAL màu vàng và 50 cây = 500 bao nhãn hiệu 555 BLEND NO.555 GOLD màu xanh). Lê Thị H khai nhận toàn bộ số thuốc lá này là do H mua của Phạm Thị T ở xã X, huyện Yên Định.

Cơ quan điều tra đã trích mẫu, niêm phong 25 cây thuốc lá điếu = 250 bao (gồm: 5 cây = 50 bao nhãn hiệu ESSE LIGHTS màu trắng xanh, 5 cây = 50 bao nhãn hiệu ESSE MENTHOL màu trắng xanh, 5 cây = 50 bao nhãn hiệu ESSE CLASSIC màu trắng hồng, 5 cây = 50 bao nhãn hiệu 555 BLEND NO. 555 ORIGINAL màu vàng và 5 cây = 50 bao nhãn hiệu 555 BLEND NO. 555 GOLD màu xanh) để phục vụ giám định. Đồng thời Cơ quan điều tra tiến hành niêm phong số thuốc lá còn lại theo quy định của pháp luật.

Đến 18 giờ 30 phút ngày 18/10/2021, Phạm Thị T đã đến Công an xã X đầu thú, khai nhận đã bán cho H toàn bộ số thuốc lá điếu đã thu giữ của H và giao nộp 01 điện thoại di động nhãn hiện Samsung, 39 cây thuốc lá điếu = 390 bao (gồm: 33 cây = 330 bao nhãn hiệu 555 BLEND NO.555 GOLD màu xanh và 06 cây = 60 bao nhãn hiệu RAISON ICE CAFÉ màu xanh).

Cơ quan điều tra đã trích mẫu, niêm phong 05 cây thuốc lá điếu = 50 bao (gồm: 04 cây = 40 bao nhãn hiệu 555 BLEND NO.555 GOLD màu xanh và 01 cây =10 bao nhãn hiệu RAISON ICE CAFÉ màu xanh) để phục vụ giám định, đồng thời niêm phong số thuốc lá còn lại theo quy định của pháp luật.

Quá trình điều tra đã xác định được như sau:

Ngày 10/10/2021, T truy cập vào nhóm bán hàng Online trên mạng xã hội Facebook thì thấy có tài khoản mang tên nước ngoài ở thành phố Hồ Chí Minh (T không nhớ tên tài khoản) có đăng tin bán thuốc lá ngoại. Qua trao đổi, thống nhất thì T đã đặt mua 223 cây thuốc lá điếu = 2.230 bao (là toàn bộ số thuốc lá Cơ quan điều tra đã thu giữ của H và do T giao nộp), gồm: 18 cây =180 bao nhãn hiệu ESSE LIGHTS màu trắng xanh, 29 cây = 290 bao nhãn hiệu ESSE MENTHOL màu trắng xanh và 37 cây = 370 bao nhãn hiệu ESSE CLASSIC màu trắng hồng, 50 cây = 500 bao nhãn hiệu 555 BLEND NO.555 ORIGINAL màu vàng, 83 cây = 830 bao nhãn hiệu 555 BLEND NO.555 GOLD màu xanh và 06 cây = 60 bao nhãn hiệu RAISON ICE CAFÉ màu xanh, với tổng số tiền là 47.760.000 đồng và thống nhất khi nào nhận hàng sẽ thanh toán tiền cho người giao hàng. Ngày 15/10/2021, T nhận được số thuốc lá đã đặt mua và thanh toán tiền cho người giao hàng. Sau đó, T đăng tin bán thuốc lá trên trang bán hàng của mạng xã hội Facebook.

Vào ngày 16/10/2021, có tài khoản Mesenger “Được và mất” nhắn tin đến cho Lê Thị H (tài khoản Mesenger “H Lê”) giới thiệu là D ở thành phố Thanh Hóa, nhờ H tìm mua thuốc lá điếu ngoại loại ESSE và 555 bán cho D. H và T là bạn bè trên Facebook, H biết T có đăng tin bán thuốc lá ngoại, thấy có nguồn lấy thuốc lá của T, nên H nhận lời bán thuốc lá cho D.

Vào tối ngày 16/10/2021, H nhắn tin và gọi điện Mesenger cho T (tài khoản Mesenger “Phạm T”), thỏa thuận mua của T 184 cây thuốc lá = 1.840 bao, với tổng số tiền là 40.640.000đ, thống nhất khi nào H bán được số thuốc lá trên thì sẽ thanh toán tiền cho T. Trong ngày 17 và sáng ngày 18/10/2021, T điều khiển xe mô tô Honda Air Blade biển kiểm soát 36B3-846.31 chở 184 cây thuốc lá đến giao cho H. Số còn lại 39 cây = 390 bao, T chở vào nhà mẹ đẻ là bà Đỗ Thị HI ở thôn Phú Cẩm, xã X, huyện Yên Định cất giấu để tiếp tục bán. Đến chiều ngày 18/10/2021, biết H bị bắt nên T đến Công an xã X đầu thú, giao nộp toàn bộ 39 cây thuốc lá còn lại.

Đối với Lê Thị H, đến trưa ngày 18/10/2021, D dùng tài khoản Zalo mang tên “Giã Từ” gọi cho H qua tài khoản Zalo “Thiên H”, hai bên thống nhất H bán cho D 184 cây thuốc lá với giá bán là 42.480.000 đồng và thống nhất H giao hàng cho D tại Cổng bệnh viện đa khoa huyện Yên Định vào chiều ngày 18/10/2021, sau khi nhận đủ hàng D sẽ thanh toán tiền cho H. Chiều ngày 18/10/2021, H sử dụng xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Acruzo màu xanh biển kiểm soát 36B5-994.37 vận chuyển thuốc lá đến địa điểm đã hẹn để giao cho D. Trên đường đi, H bị Tổ công tác Đội chống buôn lậu Phòng cảnh sát kinh tế Công an tỉnh Thanh Hóa bắt quả tang.

Tại bản kết luận giám định số 7795/C09-P4 ngày 22/10/2021 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an kết luận:

- Toàn bộ 50 bao thuốc lá (mỗi bao chứa 20 điếu thuốc lá) đều mang nhãn hiệu “ESSE Lights”, không dán tem nhập khẩu, không có chữ tiếng Việt gửi giám định đều là thuốc lá điếu thành phẩm nhãn hiệu “ESSE Lights” cùng loại với mẫu thuốc lá điếu so sánh mang nhãn hiệu “ESSE Lights” được sản xuất tại nước ngoài.

- Toàn bộ 50 bao thuốc lá (mỗi bao chứa 20 điếu thuốc lá) đều mang nhãn hiệu “ESSE Menthol”, không dán tem nhập khẩu, không có chữ tiếng Việt gửi giám định đều là thuốc lá điếu thành phẩm nhãn hiệu “ESSE Menthol” cùng loại với mẫu thuốc lá điếu so sánh mang nhãn hiệu “ESSE Menthol” được sản xuất tại nước ngoài.

- Toàn bộ 50 bao thuốc lá (mỗi bao chứa 20 điếu thuốc lá) đều mang nhãn hiệu “ESSE Classic”, không dán tem nhập khẩu, không có chữ tiếng Việt gửi giám định đều là thuốc lá điếu thành phẩm nhãn hiệu “ESSE Classic” cùng loại với mẫu thuốc lá điếu so sánh mang nhãn hiệu “ESSE Classic” được sản xuất tại nước ngoài.

- Toàn bộ 90 bao thuốc lá (mỗi bao chứa 20 điếu thuốc lá) đều mang nhãn hiệu “BLEND NO.555 GOLD”, không dán tem nhập khẩu, không có chữ tiếng Việt gửi giám định đều là thuốc lá điếu thành phẩm nhãn hiệu “BLEND NO. 555 GOLD” cùng loại với mẫu thuốc lá điếu so sánh mang nhãn hiệu “BLEND NO.555 GOLD” được sản xuất tại nước ngoài.

- Toàn bộ 50 bao thuốc lá (mỗi bao chứa 20 điếu thuốc lá) đều mang nhãn hiệu “BLEND NO. 555 ORIGINAL”, không dán tem nhập khẩu, không có chữ tiếng Việt gửi giám định đều là thuốc lá điếu thành phẩm nhãn hiệu “BLEND NO.555 ORIGINAL” cùng loại với mẫu thuốc lá điếu so sánh mang nhãn hiệu “BLEND NO. 555 ORIGINAL” được sản xuất tại nước ngoài.

- Toàn bộ 10 bao thuốc lá (mỗi bao chứa 20 điếu thuốc lá) đều mang nhãn hiệu “RAISON ICE CAFÉ”, không dán tem nhập khẩu, không có chữ tiếng Việt gửi giám định đều là thuốc lá điếu thành phẩm nhãn hiệu “RAISON ICE CAFÉ” cùng loại với mẫu thuốc lá điếu so sánh mang nhãn hiệu “RAISON ICE CAFÉ” được sản xuất tại nước ngoài.

- Tất cả các mẫu thuốc lá gửi giám định trên đều là thuốc lá điếu không được sản xuất, nhập khẩu để tiêu thụ tại Việt Nam. Theo Thông tư 124/2007/TT-BTC ngày 26/10/2007 của Bộ tài chính, thuốc lá điếu nhập khẩu vào Việt Nam phải có “tem thuốc lá điếu nhập khẩu” do Bộ tài chính nước Cộng hòa XHCN Việt Nam phát hành và dán trên từng bao. Hiện tại, Viện khoa học hình sự không đủ điều kiện để giám định các mẫu thuốc lá điếu mang các nhãn hiệu trên là của nước nào sản xuất.

Toàn bộ các mẫu vật đã sử dụng hết trong quá trình giám định.

Quá trình điều tra, Lê Thị H và Phạm Thị T đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi buôn bán thuốc lá điếu nhập lậu nhu đã nêu trên.

Đối với người nam giới ở thành phố Hồ Chí Minh đã giao dịch bán thuốc lá cho T, đối tượng tên D ở thành phố Thanh Hóa giao dịch mua thuốc lá với H, người giao hàng (shipper) giao thuốc lá và nhận tiền thanh toán từ T, trong quá trình điều tra không xác định được họ, tên, tuổi, địa chỉ cụ thể và các thông tin khác về những người này. Do đó không đủ cơ sở để điều tra mở rộng vụ án, xử lý theo quy định.

Đối với bà Đỗ Thị H1 (là mẹ đẻ của T) không biết việc T cất giấu thuốc lá tại nhà mình nên không phạm tội.

Xác minh về tài sản, thu nhập của các bị cáo, xác định các bị cáo không có thu nhập ổn định và không có tài sản riêng có giá trị.

Về vật chứng vụ án, gồm:

- 193 cây thuốc lá = 1.930 bao, gồm: 13 cây = 130 bao nhãn hiệu ESSE LIGHTS màu trắng xanh, 24 cây = 240 bao nhãn hiệu ESSE MENTHOL màu trắng xanh và 32 cây = 320 bao nhãn hiệu ESSE CLASSIC màu trắng hồng, 45 cây = 450 bao nhãn hiệu 555 BLEND NO.555 ORIGINAL màu vàng, 74 cây = 740 bao nhãn hiệu 555 BLEND NO.555 GOLD màu xanh và 05 cây = 50 bao nhãn hiệu RAISON ICE CAFÉ màu xanh, hiện đang được niêm phong trong 04 thùng cát tông.

- 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Acruzo màu xanh biển kiểm soát 36B5- 994.37, xe đã qua sử dụng.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu xanh của H đã qua sử dụng, số imei 1: 355036112346601, imei 2: 355037112346609, số seri: R58N32ZVE0J.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu vàng của T đã qua sử dụng, số imei 1: 353415085411604, imei 2: 53416085411602, số seri: R58HA25YTWH.

Tại bản cáo trạng số 08/CT-VKSYĐ ngày 15/12/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Định truy tố Phạm Thị T và Lê Thị H về tội “Buôn bán hàng cấm” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 190 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa các bị cáo Phạm Thị T và Lê Thị H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và xin giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Định luận tội giữ nguyên quyết định truy tố. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng quy định của pháp luật để xử phạt bị cáo như sau:

Áp dụng điểm b khoản khoản 1 Điều 190, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58, khoản 1 và khoản 2 Điều 65 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt Phạm Thị T từ 18 tháng đến 21 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 36 tháng đến 42 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Xử phạt Lê Thị H từ 15 tháng đến 18 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 30 tháng đến 36 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự, điểm a khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy 193 cây thuốc lá = 1.930 bao. Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu xanh đã qua sử dụng, số imei 1: 355036112346601, imei 2: 355037112346609, số seri: R58N32ZVE0J và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu vàng đã qua sử dụng, số imei 1: 353415085411604, imei 2: 53416085411602, số seri: R58HA25YTWH. Trả lại cho anh Lê Thế B 01 xe mô tô đã qua sử dụng, nhãn hiệu Yamaha Acruzo màu xanh biển kiểm soát 36B5-994.37.

Về án phí: Thực hiện theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Định, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Định, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đứng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Thông qua tranh tụng tại phiên toà, các bị cáo Phạm Thị T và Lê Thị H hoàn toàn thừa nhận: Xuất phát từ động cơ vụ lợi, ngày 15/10/2021 thông qua trang bán hàng trên mạng xã hội Facebook, Phạm Thị T đã mua 2.230 bao thuốc lá điếu nhập lập. Sau đó, đến ngày 18/10/2021, T bán lại 1.840 bao cho Lê Thị H. Khi H đang trên đường vận chuyển 840 bao thuốc lá giao cho người mua thì bị bắt quả tang, số thuốc lá còn lại của T và H đều cất giữ với mục đích để bán kiếm lời.

Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với nhau, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng, vật chứng thu giữ, cũng như các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập được trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đủ cơ sở chứng minh bị cáo Phạm Thị T đã có hành vi buôn bán 2.230 bao thuốc lá điếu nhập lậu, bị cáo Lê Thị H đã có hành vi buôn bán 1.840 bao thuốc lá điếu nhập lậu. Hành vi của các bị cáo Phạm Thị T và Lê Thị H đã đủ yếu tố cấu thành tội “Buôn bán hàng cấm” điểm b khoản 1 Điều 190 Bộ luật hình sự. Tội danh buôn bán hàng cấm đã chính thức được thành lập đối với các bị cáo Phạm Thị T và Lê Thị H. VKSND huyện Yên Định truy tố các bị cáo theo tội danh trên là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Đánh giá tính chất của vụ án và quan hệ pháp luật xâm phạm:

Tính chất vụ án là nghiêm trọng. Hành vi phạm tội của các bị cáo gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước. Các bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc buôn bán thuốc lá điếu nhập lậu là hành vi vi phạm pháp luật, nhưng vì mục đích vụ lợi mà các bị cáo đã bất chấp pháp luật thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, cần có mức hình phạt tương xứng với tính chất và mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo mới có tác dụng răn đe, đấu tranh phòng chống tội phạm về xâm phạm trật tự quản lý kinh tế.

[4] Nhận định về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và hình phạt:

Các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Trong quá trình điều tra và tại phiên toà các bị cáo thành khẩn khai báo, thể hiện sự ăn năn hối cải, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Ngoài ra, bị cáo T sau khi phạm tội đã ra đầu thú, bị cáo H có bố, mẹ là người có công với cách mạng, được tặng thưởng huy chương kháng chiến, nên các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS.

Trên cơ sở tính chất của vụ án, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HĐXX xét thấy: Các bị cáo có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu, nhất thời phạm tội, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, có nhiều giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, có nơi cư trú rõ ràng. Các bị cáo đang nuôi con nhỏ, trong đó mỗi bị cáo đều có 01 con dưới 36 tháng tuổi, cần thiết phải có sự chăm sóc của người mẹ. Vì vậy, HĐXX xét thấy không cần thiết cách các bị cáo ra khỏi xã hội, mà áp dụng hình phạt tù cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách, cũng đủ để giáo dục các bị cáo thành công dân tốt.

Hình phạt bổ sung: Các bị cáo không có thu nhập ổn định, không có tài sản riêng có giá trị. Vì vậy không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[5] Về vật chứng:

- Toàn bộ số thuốc lá điếu nhập lậu còn lại sau khi đã giám định là 1.930 bao là vật Nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 02 chiếc điện thoại Samsung thu giữ của bị cáo T và bị cáo H, là phương tiện các bị cáo liên lạc để mua bán thuốc lá điếu nhập lậu, nên cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

- Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Acruzo màu xanh biển kiểm soát 36B5-994.37 là phương tiện bị cáo H thực hiện hành vi phạm tội. Tuy nhiên, chiếc xe này bị cáo H đã bán cho anh Lê Thế B trước khi phạm tội. Anh B không biết việc bị cáo H sử dụng chiếc xe vào việc phạm tội, nên trả lại chiếc xe cho anh B là phù hợp.

- Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Air Blade biển kiểm soát 36B3- 846.31 bị cáo T dùng để chở thuốc lá đem bán cho bị cáo H, là tài sản riêng của anh Trần Doãn G . Anh G không biết việc T sử dụng xe mô tô làm phương tiện vận chuyển thuốc lá nên cơ quan điều tra không thu giữ, xử lý chiếc xe này là phù hợp với quy định của pháp luật.

[6] Về án phí: Các bị cáo có tội nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 190 của Bộ luật hình sự, tuyên bố các bị cáo Phạm Thị T và Lê Thị H phạm tội “Buôn bán hàng cấm”.

Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 190, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 38, khoản 1 và khoản 2 Điều 65 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Phạm Thị T 18 (Mười tám) tháng tù cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 36 (Ba sáu) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Xử phạt bị cáo Lê Thị H 15 (Mười lăm) tháng tù cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 30 (Ba mươi) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Phạm Thị T cho UBND xã X, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa, giao bị cáo Lê Thị H cho UBND xã L, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách của án treo. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với UBND xã X và UBND xã L, huyện Yên Định trong việc giám sát giáo dục người đó.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự, điểm a, c khoản 2 và khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 193 cây thuốc lá = 1.930 bao, gồm: 13 cây = 130 bao nhãn hiệu ESSE LIGHTS màu trắng xanh, 24 cây = 240 bao nhãn hiệu ESSE MENTHOL màu trắng xanh và 32 cây = 320 bao nhãn hiệu ESSE CLASSIC màu trắng hồng, 45 cây = 450 bao nhãn hiệu 555 BLEND NO.555 ORIGINAL màu vàng, 74 cây = 740 bao nhãn hiệu 555 BLEND NO.555 GOLD màu xanh và 05 cây = 50 bao nhãn hiệu RAISON ICE CAFÉ màu xanh, hiện đang được niêm phong trong 04 thùng cát tông.

- Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước các vật chứng gồm: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu xanh đã qua sử dụng, số imei 1: 355036112346601, imei 2: 355037112346609, số seri: R58N32ZVE0J và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu vàng đã qua sử dụng, số imei 1: 353415085411604, imei 2: 53416085411602, số seri: R58F4A25YTWH.

- Tuyên trả cho anh Lê Thế B 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Acruzo màu xanh biển kiểm soát 36B5-994.37, xe đã qua sử dụng.

Các vật chứng trên hiện đang được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự theo phiếu nhập kho sổ NK 17 ngày 21/12/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Yên Định.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu nộp án phí. Buộc các bị cáo Phạm Thị T và Lê Thị H mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tuyên quyền kháng cáo bản án cho các bị cáo, những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

208
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội buôn bán hàng cấm số 06/2022/HS-ST

Số hiệu:06/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Định - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về