Bản án về tội bắt người trái pháp luật số 67/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 67/2020/HS-ST NGÀY 24/02/2020 VỀ TỘI BẮT NGƯỜI TRÁI PHÁP LUẬT

Ngày 24/02/2020 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 569/2019/TLST-HS ngày 30/12/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 21/2020/QĐXXST-HS ngày 04/02/2020 đối với các bị cáo:

1. ĐINH THÀNH TH, sinh năm 1977; ĐKNKTT và trú tại: Thôn Trại Xanh, xã TD, huyện M, tỉnh Hải Dương (Nay là phường TD, thị xã M, tỉnh Hải Dương); quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 10/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Đinh Văn T và bà Vũ Thị B; có vợ là Triệu Thị H và 02 con; tiền án, tiền sự: Chưa; bị cáo ra đầu thú ngày 07/10/2019 và hiện đang bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.

2. ĐỖ VĂN S, sinh năm 1987; ĐKNKTT và trú tại: Thôn Dưỡng, xã PT, huyện TK, tỉnh Hải Dương; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Đỗ Văn H và bà Vũ Thị Ng; có vợ là Phạm Thị T và 02 con; tiền án, tiền sự: Chưa; bị cáo bị truy nã, ra đầu thú và bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/11/2019 tại Trại tạm giam số 01 của Công an thành phố Hà Nội. Có mặt.

3. ĐÀO DUY A, sinh năm 1992; ĐKNKTT và trú tại: Thôn An, thị trấn TB, huyện TK, tỉnh Hải Dương; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp, đảng phái: Nguyên là Đảng viên, Trung úy thuộc Tiểu đoàn Cảnh sát bảo vệ, Bộ Tư lệnh Cảnh sát Cơ động - Bộ Công an (Đã bị tước Danh hiệu Công an nhân dân và xóa tên trong danh sách đảng viên); con ông Đào Duy B và bà Đỗ Thị Th; có vợ là Hg Thị N và 01 con; tiền án, tiền sự: Chưa; bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.

Bị hại : Anh Hg Văn B, sinh năm 1976; ĐKNKTT và trú tại: Khu 16, BS, thị trấn Y, huyện L, tỉnh Phú Thọ. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Do muốn tìm mẫu đất nhiễm quặng sắt để làm chất phụ gia bán cho các Công ty sản xuất xi măng nên khoảng tháng 8/2017, Đinh Thành TH đã đến khu vực thị trấn Y, huyện L, tỉnh Phú Thọ để tìm mẫu đất và làm quen với anh Hg Văn B. Anh B nói với Th có khả năng tìm được mẫu đất nhiễm quặng và yêu cầu Th đưa chi phí trước để đi tìm. Th đồng ý và đã nhiều lần đưa cho anh B với tổng số tiền khoảng 40.000.000 đồng. Khi đưa tiền Th và anh B không viết giấy biên nhận. Sau khi nhận tiền, có lần anh B đã đưa cho Th 01 kg đất nói là đất nhiễm quặng sắt. Th mang về xét nghiệm thì thấy đây chỉ là loại đất đồi không nhiễm quặng nên gặp anh B để đòi lại tiền nhưng anh B không trả. Th cho rằng bị anh B lừa nên đã nảy sinh ý định bắt anh B để đòi tiền.

Khoảng đầu tháng 5/2018, anh B gọi điện thoại cho Th thông báo đã tìm được mẫu đất có chứa quặng Uranium và yêu cầu Th đưa thêm 10.000.000 đồng để lấy mẫu đất và hẹn Th ngày 21/5/2018 đón anh B tại bến xe Mỹ Đình để anh B giao đất; Th đồng ý. Ngày 20/5/2018, Th nói chuyện với Đỗ Văn S về việc bị anh B lừa tiền và nhờ S đi cùng Th để bắt, đánh và đòi tiền anh B. S nói với Th để S gọi thêm người tham gia và Th sẽ lo các chi phí thì Th đồng ý. Sau đó, S gọi điện thoại rủ thêm bạn xã hội là Phạm Thành Đ (Sinh năm 1989; trú tại xóm 7, xã H, huyện M, tỉnh Hải Dương), Đào Duy A cùng các đối tượng H và M (Chưa xác định được lai lịch) tham gia bắt giữ anh B thì Đ, Duy A, H và M đều đồng ý.

Khoảng 04 giờ 30 phút ngày 21/5/2019, Th điều khiển xe ôtô bán tải Toyota Hilux màu da cam, biển kiểm soát 34-C-107.29 và S điều khiển xe ôtô Huyndai i10 màu sơn trắng (Không xác định được biển kiểm soát; xe của H và M) chở theo H, M đi từ Hải Dương lên thành phố Hà Nội. Khi đi, S mang theo 02 dùi cui điện, 01 khóa còng số 8 do S đã mua từ trước. Sau đó, S liên hệ đón Phạm Thành Đ tại khu vực cầu Thanh Trì và đón Đào Duy A ở đường Phạm Văn Đồng, Hà Nội. Khi đi đến đường Hg Quốc Việt, Hà Nội thì cả nhóm dừng xe ăn sáng. Tại quán ăn, Th và S nói cho Đào Duy A và Đ biết về việc anh B nợ tiền của Th; rồi tất cả cùng bàn bạc, nhất trí về việc đi bắt giữ, đưa anh B về Hải Dương để đòi tiền. Th và S lên kế hoạch để Th và Duy A đi xe ôtô Toyota Hilux của Th đến đón anh B tại bến xe Mỹ Đình rồi chở lên đường vành đai 3. Nhóm của S, Đ, H và M sẽ đi xe Huyndai i10 đợi trên đường vành đai 3. Khi thấy xe của Th đến thì S sẽ lái xe vượt lên chặn đầu, ép xe của Th dừng lại để S, Đ lên xe Toyota Hilux ngồi hai bên khống chế đưa anh B về Hải Dương. Do Duy A đang làm Cảnh sát cơ động nên sẽ giơ giấy tờ có ảnh Duy A mặc trang phục Cảnh sát ra để đe dọa, yêu cầu anh B chấp hành.

Thực hiện kế hoạch đã thống nhất, Th lái xe Toyota Hilux chở Duy A đến đón anh B tại bến xe Mỹ Đình. Khi lên xe của Th, anh B mang theo 01 bao tải dứa bên trong chứa đất rồi để lên thùng xe ôtô của Th. Anh B ngồi ở ghế sau còn Duy A ngồi ở ghế phụ cạnh ghế lái. Trên đường đi, anh B thấy nghi ngờ nên đã bảo Th lái xe ôtô về khu công nghiệp 72 ha thuộc địa phận huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội để nói chuyện. Do trên xe Toyota Hilux lúc này chỉ có Th và Duy A nên không khống chế được anh B theo kế hoạch từ trước. Th miễn cưỡng phải làm theo ý anh B lái xe vào Đại lộ Thăng Long nhưng cố ý đi chậm để đợi S đi theo. Trên đường đi, Duy A đã nhắn tin cho S biết là xe của Th đang đi về thị trấn Quốc Oai, Hà Nội. Do không biết đường ở Hà Nội nên S và Đ thuê xe taxi đi về Quốc Oai để hỗ trợ Th, còn H và M đi xe ôtô Huyndai i10 về Hải Dương. Khi đi trên xe taxi, S cầm theo 01 dùi cui điện, đưa cho Đ cầm 01 dùi cui điện, 01 khóa còng số 8. Xe của Th đi đến lối ra từ Đại lộ Thăng Long đến địa bàn thị trấn Quốc Oai, huyện Quốc Oai, Hà Nội thì anh B bảo dừng xe ở quán nước của chị Phạm Thị Th (Sinh năm 1984; trú tại: Đội 1, đường BT, tổ dân phố N, thị trấn Quốc Oai, huyện Quốc Oai, Hà Nội) để cả 03 xuống xe vào quán uống nước. Khi xuống xe, anh B cùng Duy A và Th đi ra thùng xe mở bao tải đất cùng nhau xem rồi lại ngồi uống nước nói chuyện. Anh B yêu cầu Th đưa thêm 10.000.000 đồng để thuê máy xúc, xe ôtô khai thác lấy đất nhưng Th chỉ đồng ý đưa cho B 1.000.000 đồng nên hai bên có lời qua tiếng lại. Khoảng 10 giờ 30 phút, Đ và S đi taxi đến nơi và vào ngồi uống nước tại quán của chị Phạm Thị Ph ở cạnh quán nước của chị Phạm Thị Th. Thấy Đ và S đến, Th giả vờ bảo anh B lên xe ôtô để Th đưa tiền cho anh B nên anh B đồng ý cùng lên xe với Th, Duy A. Khi anh B lên ngồi ở ghế sau xe ôtô của Th thì Đ và S mỗi người đến mở một cửa sau xe ôtô của Th với mục đích ngồi lên để giữ anh B ở giữa. Thấy vậy, anh B đẩy cửa nhảy xuống xe bỏ chạy thì bị Đ và S giữ lại khống chế và đấm đá. Duy A dùng hai tay giữ tay anh B, Đ đã dùng khóa số 8 khóa hai tay anh B và ép anh B phải theo ra xe ôtô của Th. Duy A giơ thẻ ngành ra hô: “Công an đây bắt nó đưa về đồn”. Cùng lúc đó, S và Đ dùng dùi cui điện dí vào người anh B làm anh B ngã ngửa ra nền đất và bị Duy A khống chế giữ nằm dưới nền đất. Anh B chống cự không đi và hô “Cướp, Chúng nó không phải Công an đâu” nên nhiều người dân chạy đến không cho S, Đ và Duy A đưa anh B lên xe ôtô; đồng thời báo cho Cảnh sát 113 - Công an huyện Quốc Oai, Hà Nội. Thấy vậy, Duy A cùng S và Đ bỏ anh B ra, đi về hướng xe ôtô của Th thì Duy A bị người dân giữ lại. Đ và S lên xe Th bỏ chạy về tỉnh Hải Dương. Công an huyện Quốc Oai đã đến hiện trường đưa anh B và Duy A về trụ sở Công an huyện Quốc Oai làm việc. Cơ quan điều tra đã thu giữ tại hiện trường 01 khóa số 8 từ anh Hg Văn B; thu của Đào Duy A 01 điện thoại Nokia 1202 màu đen, 01 giấy phép lái xe số 80A2X1.

Tại biên bản xem xét dấu vết trên thân thể anh Hg Văn B hồi 13 giờ 50 phút ngày 21/5/2018 của Công an huyện Quốc Oai, xác định: Trên người anh B có 01 vết trầy xước da tại vùng bắp tay phải kích thước (3x7)cm; 01 vết trầy xước da tại vùng trán bên phải kích thước (0,5x0,5)cm cách đuôi lông mày phải khoảng 2,5cm; 01 vết trầy xước da đầu ngón chân cái bên trái kích thước (2x2)cm.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Quốc Oai, Hà Nội, anh Hg Văn B khai nhận có quan hệ quen biết Đinh Thành TH và Th đã nhiều lần đến chơi nhà anh B ở thị trấn Y, huyện L, tỉnh Phú Thọ. Th nói với anh B muốn tìm đất đồi để khai thác nên anh B đã dẫn Th đi xem đất đồi ở gần khu vực nhà anh B. Quá trình quen biết, Th nhờ anh B đi tìm đất quặng Uranium để khai thác bán kiếm lời nhưng anh B không đồng ý. Về sự việc xảy ra ngày 21/5/2018, anh B trình bày không có mâu thuẫn gì với Th, không quen biết với nhóm người bắt giữ anh B. Anh B bị 03 thanh niên trong nhóm bắt giữ đánh nhưng do thương tích nhẹ nên anh B không yêu cầu đi giám định thương tích, ngoài ra anh B không bị mất mát, thiệt hại tài sản gì. Đến nay, Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an thành phố Hà Nội đã nhiều lần triệu tập anh B nhưng anh B không đến. Hiện anh B không có mặt ở nơi cư trú, không xác định được anh B đang ở đâu.

Ngày 07/10/2019, Đinh Thành TH đã đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hà Nội trình diện và khai nhận như đã nêu trên. Về bao tải đất mà anh Hg Văn B để lại trên xe ôtô của Th ngày 21/5/20118 Th khai sau khi về Hải Dương, Th đã tự thực hiện xét nghiệm mẫu đất nhưng do đất không nhiễm quặng sắt nên Th đã đổ tải đất đi, hiện Th không nhớ được vị trí đổ tải đất nên Cơ quan điều tra không thu hồi được.

Ngày 08/11/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hà Nội đã quyết định truy nã Đỗ Văn S. Ngày 12/11/2019, S đã đến Cơ quan điều tra đầu thú và khai nhận hành vi phạm. Đối với nguồn gốc 02 chiếc dùi cui điện, 01 còng số 8, S khai mua qua mạng xã hội từ khoảng tháng 3/2018 với giá 300.000 đồng/01 dùi cui và 200.000đồng/ còng số 8. Trên đường bỏ chạy, S đã vứt bỏ 02 dùi cui trên đoạn đường Đại lộ Thăng Long và không nhớ nơi vứt nên Cơ quan điều tra không thu được tang vật.

Đối với hai đối tượng tên H và M, S khai quen biết từ năm 2010 qua mối quan hệ xã hội nhưng không biết nơi ở của H và M. Khi được Th rủ đi bắt anh B thì S đã rủ H, M cùng đi. Hiện S không biết H, M đang ở đâu nên Cơ quan điều tra đã quyết định tách tài liệu liên quan đến hành vi của H và M để xem xét, xử lý sau. Đối với Phạm Thành Đ hiện đang bỏ trốn và đã bị Cơ quan điều tra quyết định truy nã và quyết định tạm đình chỉ điều tra bị can, khi nào bắt được sẽ xử lý sau.

Cáo trạng số 431/CT-VKS-P2 ngày 26/11/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội truy tố các bị cáo Đinh Thành TH, Đỗ Văn S và Đào Duy A về tội “Bắt người trái pháp luật” theo điểm a khoản 2 Điều 157 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa: Các bị cáo khai nhận hành vi như nội dung cáo trạng đã nêu và đề nghị được xem xét giảm nhẹ hình phạt. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và sau khi đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi; nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 157; Điều 17; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2017, xử phạt Đinh Thành TH và Đỗ Văn S từ 03 đến 04 năm tù; xử phạt Đào Duy A từ 02 đến 03 năm tù nhưng cho hưởng án treo; xử lý vật chứng theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Quá trình khởi tố, điều tra, truy tố các bị cáo trong vụ án, các Cơ quan và người tiến hành tố tụng các cấp đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; không ai có ý kiến thắc mắc, khiếu nại gì.

[2] Về nội dung: Căn cứ lơi khai của các bị cáo; lơi khai cua bị hại, nhưng ngươi co liên quan , người làm chứng; căn cứ các tang vật chứng đã thu giữ; biên bản nhận dạng; và các tài liệu, chứng cứ chứng minh khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử nhận thấy: Xuất phát từ mâu thuẫn giữa Đinh Thành TH anh Hg Văn B về việc tìm kiếm mẫu đất nhiễm quặng sắt để làm chất phụ gia bán cho các Công ty sản xuất xi măng; Th đã nhiều lần đưa tiền cho anh B nhưng anh B không lấy được mẫu đất như đã hứa nên Th nảy sinh ý định bắt giữ anh B để giải quyết mâu thuẫn. Th đã nhờ Đỗ Văn S cùng đi bắt giữ anh B. S đồng ý và rủ thêm Đào Duy A, Phạm Thành Đ và 02 đối tượng nữa cùng tham gia bắt giữ anh B. Ngày 21/5/2018, Th đã bàn bạc và phân công cụ thể công việc đối với S, Đ, Đào Duy A để thực hiện hành vi dùng vũ lực khống chế, khóa còng số 8 vào tay anh Hg Văn B, ép anh B lên xe ôtô để đưa về tỉnh Hải Dương. Khoảng 10 giờ 30 phút cùng ngày, Th cùng Duy A, Đ và S đưa anh B đến quán nước chị Phạm Thị Th ở đường B, tổ dân phố N, thị trấn Quốc Oai, huyện Quốc Oai, Hà Nội. Tại đây, tất cả đã đưa anh B lên xe ôtô biển kiểm soát 34C-107.29 để bắt giữ. Anh B ra khỏi xe bỏ chạy thì Duy A hô: “Công an đây bắt nó đưa về Đồn”; S và Đ liên tục dùng dùi cui điện dí vào người anh B làm anh B ngã ngửa ra nền đất. Duy A dùng hai tay giữ anh B nằm dưới nền đất. Anh B chống cự và hô hoán nên quần chúng nhân dân đã bắt giữ được Duy A và báo Công an huyện Quốc Oai đến giải quyết; Th cùng Đ và S đã lên xe bỏ chạy. Ngày 07/10/2019 và ngày 12/11/2019, Đinh Thành TH và Đỗ Văn S đã đến Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Hà Nội đầu thú.

Hành vi nêu trên của Đinh Thành TH, Đỗ Văn S và Đào Duy A đã đồng phạm tội “Bắt người trái pháp luật” thuộc trường hợp tăng nặng định khung “Có tổ chức” theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 157 của Bộ luật Hình sự như Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội đã viện dẫn để truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Nhận thức rõ hành vi của mình là sai trái, vi phạm pháp luật; hành vi đó chẳng những xâm phạm quyền tự do thân thể của người khác mà còn gây mất trật tự trị an, an toàn xã hội tại địa phương nên việc khởi tố, truy tố để xét xử và áp dụng hình phạt nghiêm minh đối với các bị cáo là cần thiết, nhằm cải tạo giáo dục các bị cáo cũng như có tác dụng đấu tranh chống và phòng ngừa vi phạm pháp luật chung. Trong vụ án này, bị cáo Đinh Thành TH là người khởi xướng, bị cáo Đỗ Văn S là người hành động tích cực, bị cáo Đào Duy A tham gia với mức độ hạn chế. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai báo; ăn năn hối cải; phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo các điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Trong vụ án này, bị hại cũng có lỗi, hành vi của bị hại có dấu hiệu của tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và đó là nguyên nhân dẫn đến hành vi vi phạm của các bị cáo. Về nhân thân, các bị cáo đều chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu; bị cáo Đinh Thành TH và Đỗ Văn S đã ra đầu thú là tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; các bị cáo có điều kiện hoàn cảnh kinh tế, gia đình khó khăn; có địa chỉ cư trú rõ ràng và việc không buộc các bị cáo phải chấp hành hình phạt tù cũng không gây nguy hại cho xã hội. Vì vậy, Hội đồng xét xử xem xét áp dụng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung và cho các bị cáo Đinh Thành TH, Đào Duy A được hưởng biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện là thỏa đáng; bị cáo Đỗ Văn S bị truy nã nên không đủ điều kiện được hưởng án treo.

[4] Về các biện pháp tư pháp: Cơ quan điều tra đã thu giữ 01 Giấy phép lái xe và 01 điện thoại Nokia 1202 của Đào Duy A; 01 khóa số 8 bằng kim loại trắng từ anh Hg Văn B. Xét thấy, Giấy phép lái xe là giấy tờ cá nhân của Đào Duy A nên trả lại bị cáo; chiếc điện thoại được bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên tịch thu, sung công; chiếc khóa số 8 không còn giá trị sử dụng nên tịch thu, tiêu hủy.

[5] Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án thì buộc các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm.

Căn cứ những nhận đinh trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Đinh Thành TH, Đỗ Văn S, Đào Duy A phạm tội “Bắt người trái pháp luật”.

2. Về điều luật áp dụng và hình phạt:

2.1) Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 157; Điều 17; Điều 38; điểm h, s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Đỗ Văn S 12 (Mười hai) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 12/11/2019.

2.2) Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 157; Điều 17; Điều 38; điểm h, s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 58; Điều 65 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Đinh Thành TH 18 (Mười tám) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 36 (Ba mươi sáu) tháng tính từ ngày 24/02/2020.

Giao bị cáo Đinh Thành TH cho Ủy ban nhân dân phường TD, thị xã M, tỉnh Hải Dương để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, Đinh Thành TH cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án này.

2.3) Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 157; Điều 17; Điều 38; điểm h, s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 58; Điều 65 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Đào Duy A 12 (Mười hai) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 (Hai mươi bốn) tháng tính từ ngày 24/02/2020.

Giao bị cáo Đào Duy A cho Ủy ban nhân dân thị trấn TB, huyện TK, tỉnh Hải Dương để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, Đào Duy A cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án này.

3. Về các biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự:

3.1) Trả lại bị cáo Đào Duy A 01 Giấy phép lái xe số 80A2X1 mang tên Đào Duy A;

3.2) Tịch thu, sung công quỹ Nhà nước 01 điện thoại Nokia 1202 màu đen, đã qua sử dụng, số seri 351976048584755, có 01 sim; không mở được máy điện thoại để kiểm tra chất lượng và số sim;

3.3) Tịch thu, tiêu hủy 01 khóa số 8 bằng kim loại trắng, trên khóa có dòng chữ dập chìm 508-E16 BCA.

(Tình trạng toàn bộ vật chứng như Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Hà Nội và Cục Thi hành án dân sự thành phố Hà Nội ngày 12/12/2019)

4. Về án phí sơ thẩm: Đinh Thành TH, Đỗ Văn S và Đào Duy A, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết tại trụ sở Ủy ban nhân dân nơi cư trú. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

24
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội bắt người trái pháp luật số 67/2020/HS-ST

Số hiệu:67/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về