Bản án về ly hôn và tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 43/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ UÔNG BÍ, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 43/2021/HNGĐ-ST NGÀY 08/09/2021 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 08 tháng 9 năm 2021, tại Phòng xử án Tòa án nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh xét xử công khai sơ thẩm vụ án thụ lý số: 112/2021/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 5 năm 2021 về: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 38/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 05 tháng 8 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 30/2021/QĐST-HNGĐ ngày 23 tháng 8 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Nguyễn Văn D, sinh năm 1983.

Địa chỉ: Khu Đ, phường T, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt tại phiên tòa).

2. Bị đơn: Chị Võ Thị T, sinh năm 1987.

Địa chỉ: Khu Đ, phường T, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, bản tự khai và đơn xin xét xử vắng mặt tại phiên tòa phiên tòa, nguyên đơn anh Nguyễn Văn D trình bày có nội dung:

Về tình trạng hôn nhân: Tôi (Nguyễn Văn D) và chị Võ Thị T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, được đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, tỉnh Nghệ An vào ngày 19/02/2011. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại thôn 2, xã Đ (nay là khu Đ), phường T, thành phố U, cuộc sống hạnh phúc được khoảng hơn hai năm thì bắt đầu xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng không hợp tính, bất đồng quan điểm sống dẫn đến không có tiếng nói chung.

Sau khi mâu thuẫn căng thẳng, vợ chồng đã được gia đình hòa giải tìm mọi biện pháp nhằm khắc phục mâu thuẫn, nhưng đều không có kết quả. Vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2015 đến nay, không ai còn quan tâm dành tình cảm cho nhau. Nay tôi xác định tình cảm vợ chồng không còn, nếu hôn nhân tiếp tục duy trì, không đem lại hạnh phúc cho nhau. Vì vậy, tôi yêu cầu Tòa án giải quyết cho được ly hôn chị Võ Thị T.

Về con chung: Trong thời kỳ hôn nhân vợ chồng tôi có một con chung là Nguyễn Bảo L, sinh ngày 28/6/2012, hiện ở với tôi nên tôi đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu chị T phải cấp dưỡng nuôi con chung, vì tôi có nhà ở, có công việc và thu nhập ổn định đảm bảo việc nuôi dưỡng con chung.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai bị đơn chị Võ Thị T trình bày có nội dung:

Về tình trạng hôn nhân: Tôi và anh Nguyễn Văn D kết hôn trên cơ sở tự nguyện, được đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, tỉnh Nghệ An vào ngày 19/02/2011. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại thôn 2, xã Đ (nay là khu Đ), phường T, thành phố U, cuộc sống hạnh phúc được khoảng hơn hai năm thì bắt đầu xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng không hợp tính, bất đồng quan điểm sống dẫn đến không có tiếng nói chung. Vợ chồng đã được gia đình hòa giải tìm mọi biện pháp nhằm khắc phục mâu thuẫn nhưng đều không có kết quả và đã sống ly thân từ năm 2015 đến nay, tôi đồng ý ly hôn với anh D.

Về con chung: Chúng tôi có một con chung là Nguyễn Bảo L, sinh ngày 28/6/2012, hiện ở với anh D nên tôi đề nghị để anh D được trực tiếp nuôi dưỡng con chung.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn chị Võ Thị T đều không có mặt tham gia tố tụng, mặc dù đã nhận được Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa của Tòa án hợp lệ.

Cháu Nguyễn Bảo L, sinh ngày 28/6/2012 có nguyện vọng ở với bố, nếu bố mẹ ly hôn.

Tại biên bản xác minh ngày 08/6/2021, Khu trưởng khu Đ, phường T, thành phố U xác nhận mâu thuẫn vợ chồng giữa anh D và chị T đã kéo dài nhiều năm, khu phố trước đây đã hòa giải nhiều nhưng không có kết quả, vợ chồng có một con chung hiện ở với anh D.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm:

Về trình tự thủ tục tố tụng: Đối với Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử đã thực hiện đầy đủ các trình tự thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Những người tham gia tố tụng, có nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ khi tham gia tố tụng, còn bị đơn vắng mặt là chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ khi tham gia tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh Nguyễn Văn D, giao cho anh D được trực tiếp nuôi dưỡng con chung Nguyễn Bảo L, sinh ngày 28/6/2012 cho đến khi thành niên; chị T không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung hàng tháng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và kết quả tranh tụng. Tòa án nhân dân thành phố Uông Bí nhận định:

[2]. Về trình tự thủ tục tố tụng:

Tòa án nhân dân thành phố Uông Bí thụ lý và giải quyết vụ án về ly hôn và tranh chấp về nuôi con khi ly hôn số: 112/2021/TLST-HNGĐ ngày 12/5/2021, giữa nguyên đơn anh Nguyễn Văn D với bị đơn chị Vũ Thị T có địa chỉ tại thành phố Uông Bí là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, còn bị đơn chị Võ Thị T vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do. Cho nên, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự. [3]. Về hôn nhân:

Quan hệ hôn nhân giữa anh Nguyễn Văn D và chị Võ Thị T trên cơ sở tự nguyện, được đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, tỉnh Nghệ An vào ngày 19/02/2011 là hôn nhân hợp pháp nên được pháp luật bảo vệ. Mâu thuẫn vợ chồng anh D và chị T căng thẳng từ năm 2015 đến nay không ai còn quan tâm, dành tình cảm cho nhau. Chính quyền địa phương nơi cư trú đều xác nhận mâu thuẫn vợ chồng anh D và chị T là có thật và đã kéo dài. Trong quá trình hòa giải tại Tòa án chị T không có mặt để tham gia các phiên hòa giải do Tòa án tiến hành, mặc dù đều nhận được các Thông báo của Tòa án, chứng tỏ chị T cũng không có nguyện vọng hàn gắn tình cảm vợ chồng. Vì vậy, xác định mâu thuẫn vợ chồng giữa anh D và chị T đã đến mức trầm trọng không thể khắc phục được, nếu tiếp tục duy trì, sẽ không mang lại hạnh phúc cho nhau. Cho nên, chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh D theo quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[4]. Về nuôi dưỡng con chung:

Trong thời kỳ hôn nhân vợ chồng có một con chung Nguyễn Bảo L, sinh ngày 28/6/2012, hiện ở với anh D đồng thời cháu có nguyện vọng được ở với bố. Để ổn định và đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con chung chưa thành niên cũng như điều kiện nuôi dưỡng của các bên nên giao cho anh D được trực tiếp nuôi dưỡng con chung cho đến khi thành niên theo quy định tại các Điều 58; 81;

82; 83 và 84 Luật Hôn nhân và gia đình.

[5]. Về án phí: Anh Nguyễn Văn D là nguyên đơn trong vụ án ly hôn nên phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

[6]. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại các Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 56; các Điều 58; 81; 82; 83 và 84 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; Điều 238 Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 17 Luật phí và lệ phí; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân:

Cho anh Nguyễn Văn D ly hôn chị Võ Thị T.

2. Về nuôi dưỡng con chung:

2.1. Giao cho anh Nguyễn Văn D được trực tiếp nuôi dưỡng con chung Nguyễn Bảo L, sinh ngày 28/6/2012, kể từ tháng 9/2021 cho đến khi thành niên (Đủ 18 tuổi).

2.2. Chị Võ Thị T không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

2.3. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom của người đó. Các đương sự có quyền đề nghị thay đổi người trực tiếp nuôi con chung; yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định của pháp luật.

3. Về án phí: Anh Nguyễn Văn D phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào tạm ứng án phí 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) đã nộp theo Biên lai thu tiền số 0006561 ngày 12/5/2021 của Chi Cục thi hành án dân sự thành phố Uông Bí.

4. Về quyền kháng cáo: Anh Nguyễn Văn D và chị Võ Thị T có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

51
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn và tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 43/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:43/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Uông Bí - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về