Bản án về ly hôn và nuôi con khi ly hôn số 104/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ TÂN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 104/2022/HNGĐ-ST NGÀY 23/03/2022 VỀ LY HÔN VÀ NUÔI CON KHI LY HÔN

Trong ngày 23 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phú Tân xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 298/ 2021/TLST-HNGĐ ngày 19 tháng 11 năm 2021, về tranh chấp “Hôn nhân gia đình - Ly hôn và nuôi con khi ly hôn”. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 22/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 07 tháng 3 năm 2022 giữa:

1. Nguyên đơn: Anh Lê Văn Q, sinh năm 1991;

Nơi cư trú: ấp Phú Q, xã Phú A, huyện Phú T, tỉnh An Giang.

2. Bị đơn: Chị Trần Thị Diễm H, sinh năm 1994;

Nơi cư trú: ấp Hưng Th 2, xã Phú H, huyện Phú T, tỉnh An Giang.

(Anh Q và chị H vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ly hôn đề ngày 08/02/2021, bản tự khai nguyên đơn anh Lê Văn Q trình bày: Sau khi tìm hiểu anh và chị H có tổ chức lễ cưới, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã Phú An, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 10/2015 ngày 24/02/2015, chung sống thời gian đầu hạnh phúc, cho đến năm 2017 phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, không hợp nhau, nên thường xuyên cãi về vấn đề tiền bạc, chị H bỏ đi cho đến nay, vợ chồng chính thức ly thân từ đó, không ai quan tâm đến ai. Hiện tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài, yêu cầu ly hôn với chị Trần Thị Diễm H Về con chung: anh và chị H có 01 con chung tên Lê Thị Yến Nh, sinh ngày 30/7/2015, hiện do anh đang chăm sóc, nuôi dưỡng, yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung, không yêu cầu cấp dưỡng cho con.

Về tài sản chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung phải thu, phải trả: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ngoài ra không có ý kiến nào khác.

- Bị đơn chị Trần Thị Diễm H: đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt không lý do, không có lời trình bày.

Ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Tân:

- Về thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng quy định pháp luật. Tuy nhiên, chị H vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án là chấp hành pháp luật chưa nghiêm.

- Về nội dung: Hôn nhân của anh Lê Văn Q và chị Trần Thị Diễm Hg được xác lập trên cơ sở tự tìm hiểu, tự nguyện, có đăng ký kết hôn, đây là hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ; quá trình chung sống vợ chồng có nhiều mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, từ khi ly thân đến nay không hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu của anh Q xin ly hôn là có căn cứ, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ kết quả tranh luận tại phiên toà, sau khi nghe Kiểm sát viên phát biểu việc tuân theo pháp luật tố tụng và đề xuất nội dung giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Về quan hệ pháp luật tranh chấp: anh Lê Văn Q khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với chị H và yêu cầu nuôi con chung nên xác định quan hệ pháp luật “Tranh chấp về hôn nhân và gia đình – Ly hôn và nuôi con khi ly hôn” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về thẩm quyền giải quyết: chị Trần Thị Diễm H là bị đơn có nơi cư trú ấp Hưng Thơi 2, xã Phú Hưng, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang, căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Phú Tân, tỉnh An Giang.

Anh Q có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt, chị H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt không có lý do nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh, chị theo quy định tại khoản 2 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung: Anh Q yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với chị H. Xét chứng cứ có trong hồ sơ cùng kết quả tranh tụng công khai tại phiên tòa thể hiện, hôn nhân của anh chị được xác lập năm 2015 trên cơ sở tự tìm hiểu, có đăng ký kết hôn được pháp luật thừa nhận. Tuy nhiên, vợ chồng chung sống không hạnh phúc, phát sinh nhiều mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, vợ chồng chính thức ly thân từ năm 2017 đến nay, không hàn gắn được tình cảm vợ chồng mà anh Q và chị H mỗi người sinh sống mỗi nơi, không ai quan tâm ai, từ đó tình cảm vợ chồng không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, điều này phù hợp với lời trình bày của người làm chứng; do đó, anh Q yêu cầu ly hôn là có căn cứ được chấp nhận theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân gia đình năm 2014.

Về nuôi con chung: anh, chị có 01 con chung tên Lê Thị Yến Nh, sinh ngày 30/7/2015, hiện do anh Q đang chăm sóc, nuôi dưỡng; anh Qyêu cầu được tiếp tục nuôi con chung, không yêu cầu cấp dưỡng cho con. Xét, cháu Nh từ khi ly thân đến nay do anh Q trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng đảm bảo phát triển bình thường về thể chất, tinh thần; dó đó, căn cứ quy định tại Điều 81 Luật hôn nhân gia đình năm 2014, cần giao cháu Nh cho anh Q tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con đến thành niên hoặc tự lập được, chị H không phải cấp dưỡng cho con. Anh Q phải tạo mọi điều kiện thuận lợi khi chị H đến thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được quyền cản trở.

Trường hợp, người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người không trực tiếp nuôi con. Mặt khác, nếu có căn cứ cho rằng, anh Q không còn đảm bảo các điều kiện nuôi dạy con hoặc có thỏa thuận về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phù hợp với lợi ích của con thì chị H có quyền làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết thay đổi người trực tiếp nuôi con.

Về tài sản chung; nợ chung phải thu, phải trả: Các bên không tranh chấp, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.

Ghi nhận lời trình bày đương sự không có nợ chung, nhưng sau khi Bản án có hiệu lực pháp luật nếu có nguyên đơn xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì anh Q và chị H phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.

Ngoài ra, các bên không tranh chấp về vấn đề gì khác nên không đặt ra xem xét.

[3] Về án phí: Anh Q phải án phí theo qui định pháp luật. Chị H không phải chịu án phí.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 227; Điều 228; Điều 271; Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 84 Luật hôn nhân gia đình năm 2014;

Căn cứ Điều 26; khoản 5, khoản 6 Điều 27 và khoản 1 Điều 48 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Q Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Lê Văn Q.

Về hôn nhân: Anh Lê Văn Q được ly hôn với chị Trần Thị Diễm H.

Giấy chứng nhận kết hôn số 10/2015 ngày 24/02/2015 của Ủy ban nhân dân xã Phú An, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang cấp cho anh Lê Văn Q và chị Trần Thị Diễm H không còn giá trị pháp lý khi Bản án có hiệu lực pháp luật.

Về con chung: Anh Lê Văn Q được tiếp tục trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chung tên Lê Thị Yến Nh, sinh ngày 30/7/2015 đến thành niên hoặc tự lập được. Chị Trần Thị Diễm H không phải cấp dưỡng cho con.

Anh Q phải tạo mọi điều kiện thuận lợi khi chị H đến thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung; không ai được quyền cản trở.

Về tài sản chung; nợ chung phải thu, phải trả: không có.

Về án phí dân sự sơ thẩm: Anh Lê Văn Q phải chịu án phí hôn nhân gia đình là 300.000 đồng, được khấu trừ tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu số 0004121 ngày 19/11/2021 của Chi Cục thi hành án dân sự huyện Phú Tân, tỉnh An Giang (đã nộp đủ). Chị H không phải chịu án phí.

Các đương sự có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tống đạt hoặc niêm yết bản sao bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án thực hiện theo Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

236
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn và nuôi con khi ly hôn số 104/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:104/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Tân - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về