TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THẠCH THÀNH, TỈNH THANH HOÁ
BẢN ÁN 61/2021/HNGĐ-ST NGÀY 31/08/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP VỀ NUÔI CON
Ngày 31 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 125/2021/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 6 năm 2021 về: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 53/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 02 tháng 8 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 29/2021/QĐST-HNGĐ ngày 18 tháng 8 năm 2021, giữa các đương sự:
1.Nguyên đơn: Chị Bùi Thị T; Sinh năm: 1995 Địa chỉ: Làng N, xã C, huyện C, tỉnh Thanh Hóa.
Vắng mặt (Có đơn xin xét xử vắng mặt).
2.Bị đơn: Anh Bùi Công N; Sinh năm: 1994 Địa chỉ: Thôn C, xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa Vắng mặt không có lý do.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện đề ngày 10/6/2021 và bản tự khai ngày 14/6/2021 cũng như trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Bùi Thị T trình bày:
Về hôn nhân: Chị và anh Bùi Công N kết hôn tự nguyện có đăng ký kết hôn ngày 11/6/2014 tại Ủy ban nhân dân (Sau đây viết tắt là UBND) xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa. Sau ngày cưới tình cảm vợ chồng hòa thuận đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng tính tình không hòa hợp, không cùng chung quan điểm sống nên thường xuyên sảy ra cãi cọ, cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc. Thời gian kéo dài khiến cho chị cảm thấy vô cùng mệt mỏi. Mặc dù đã được hai bên gia đình nhiều lần khuyên giải nhưng vợ chồng vẫn không thể hòa hợp được. Chị và anh N đã sống ly thân từ năm 2016 cho đến nay, không còn quan hệ tình cảm với nhau nữa. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh N.
Về con cái: Vợ chồng có 01 con chung là Bùi Khắc T, sinh ngày 24/01/2015, từ khi vợ chồng sống ly thân thì cháu luôn ở với bố và ông bà nội. Để tránh sự xáo trộn trong cuộc sống và học tập của cháu. Ly hôn, chị đề nghị được giao con cho anh N trực tiếp nuôi dưỡng, chị cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh N mỗi tháng là 1.000.000đ (Một triệu đồng) cho đến khi cháu đủ 18 tuổi.
Về tài sản: Chị T không yêu cầu Toà án giải quyết.
Tòa án đã Tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án và triệu tập anh Bùi Công N để nộp bản tự khai nhưng anh N đều vắng mặt nên không có lời khai của anh N trong hồ sơ vụ án.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát:
Về tố tụng: Tòa án đã xác định đúng quan hệ pháp luật và tư cách tố tụng của các đương sự trong vụ án. Từ giai đoạn thụ lý vụ án cho đến khi mở phiên tòa xét xử sơ thẩm, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án cũng như các thành viên của Hội đồng xét xử (Sau đây viết tắt là HĐXX) và Thư ký phiên tòa đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự (Sau đây viết tắt là BLTTDS). Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình còn bị đơn chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định của BLTTDS.
Về nội dung: Đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng các Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân gia đình;
Về hôn nhân: Xử cho Bùi Thị T được ly hôn anh Bùi Công N; Về con chung: Giao con chung là cháu Bùi Khắc T, sinh ngày 24/01/2015 cho anh N trực tiếp nuôi dưỡng. Chị T cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh N mỗi tháng là 1.000.000đ (Một triệu đồng), thời gian cấp dưỡng từ tháng 8 năm 2021 cho đến khi cháu T đủ 18 tuổi.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định:
[1]. Về tố tụng: Đây là vụ án Hôn nhân và gia đình có con chưa thành niên và trong quá trình giải quyết vụ án, do các bên đương sự chưa thống nhất được các vấn đề tranh chấp trong vụ án nên Tòa án đã tiến hành xác minh để xác định nguyên nhân của việc phát sinh tranh chấp theo khoản 3 Điều 208 BLTTDS và đã thông báo kết quả thu thập tài liệu chứng cứ cho các bên đương sự cũng nhưng VKS được biết.
[2]. Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải cho các bên đương sự, nhưng anh N không có mặt nên Tòa án đã thông báo kết quả kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ cho anh N theo khoản 3 Điều 210 BLTTDS.
[3]. Anh N đã được triệu tập hợp lệ đến phiên hoà giải hai lần nhưng anh N đều không đến để tham gia hoà giải nên Toà án không tiến hành hoà giải được. Đây là trường hợp không tiến hành hoà giải được theo quy định tại khoản 1 Điều 207 BLTTDS.
[4]. Tại phiên tòa hôm nay, chị T vắng mặt nhưng đã có đơn xin xét xử vắng mặt. Anh N đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai đến tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 227, khoản 1, khoản 3 Điều 228, Điều 238 BLTTDS, Tòa án xét xử vắng mặt chị T và anh N.
[5]. Về hôn nhân: Chị Bùi Thị T và anh Bùi Công N kết hôn tự nguyện có đăng ký kết hôn ngày 11/6/2014 tại UBND xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa và không vi phạm các cấm của Luật hôn nhân và gia đình, là hôn nhân hợp pháp và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo khoản 1 Điều 28 BLTTDS. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hòa thuận đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính tình vợ chồng không hợp, luôn bất đồng quan điểm sống nên hay sảy ra cãi vã, cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc. Chị T và anh N đã sống ly thân từ năm 2016 đến nay mỗi người một nơi, không còn qua lại, quan tâm gì đến nhau nữa. Việc này đã được các cấp chính quyền xã T xác nhận và cũng phù hợp với nội dung Biên bản xác minh tình trạng hôn nhân mà Tòa án đã tiến hành thu thập. Nay chị T nhất quyết yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh N, HĐXX nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, cần căn cứ điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, xử cho chị Bùi Thị T được ly hôn anh Bùi Công N.
[6]. Về con chung: Vợ chồng có một con chung. Ly hôn, chị T yêu cầu giao con cho anh N trực tiếp nuôi dưỡng, chị T tự nguyện cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh N mỗi tháng là 1.000.000đ (Một triệu đồng) cho đến khi cháu đủ 18 tuổi. Xét thấy, từ khi vợ chồng sống ly thân thì cháu T luôn ở với anh N và ông bà nội. Để tránh sự xáo trộn trong cuộc sống và sinh hoạt hàng ngày của cháu. Nghĩ nên chấp nhận yêu cầu của chị T, giao cháu T cho anh N trực tiếp nuôi dưỡng, chị T cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh N mỗi tháng là 1.000.000đ (Một triệu đồng).
[7] Về tài sản: Chị T không yêu cầu nên miễn xét.
[8] Về án phí: Chị T phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điểm a khoản 1 Điều 24, điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu án phí và lệ phí Toà án.
Về hôn nhân: Xử cho chị Bùi Thị T được ly hôn anh Bùi Công N.
Về con chung: Giao cháu Bùi Khắc T, sinh ngày 24/01/2015 cho anh N trực tiếp nuôi dưỡng, chị T cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh N mỗi tháng 1.000.000đ (Một triệu đồng), thời gian cấp dưỡng từ tháng 8 năm 2021 cho đến khi cháu T đủ 18 tuổi hoặc đến khi các đương sự có yêu cầu thay đổi mức cấp dưỡng khác.
Khoản tiền cấp dưỡng nuôi con được thi hành ngay mặc dù bản án có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
Chị T có quyền qua lại thăm nom, không ai được cản trở.
Về án phí: Chị Bùi Thị T phải chịu 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về việc xin ly hôn và 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về việc cấp dưỡng nuôi con. Chị T đã nộp tạm ứng án phí DSST là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thạch Thành theo biên lai số AA/2018/0003166 ngày 11/6/2021, chị T còn phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí DSST.
Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Án xử công khai sơ thẩm, vắng mặt chị Bùi Thị T và anh Bùi Công N. Chị T và anh N có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết
Bản án về ly hôn, tranh chấp về nuôi con số 61/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 61/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thạch Thành - Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 31/08/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về