Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 92/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỦY NGUYÊN - THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 92/2022/HNGĐ-ST NGÀY 30/05/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 30 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 52/2022/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 3 năm 2022 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 84/2022/QĐXX-ST ngày 10 tháng 5 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 77/2022/QĐST-HNGĐ ngày 24 tháng 5 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị X; nơi cư trú: Thôn 7, xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt (có đơn xin xét xử vắng mặt).

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn Y; nơi cư trú: Thôn 7, xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện xin ly hôn đề ngày 14/02/2022 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, chị Nguyễn Thị X (nguyên đơn) khai:

Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị X và anh Nguyễn Văn Y kết hôn trên cơ sở tự nguyện, được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng số 10 ngày 18/01/2013. Quá trình chung sống, vợ chồng chung sống hòa thuận hạnh phúc đến năm 2021 thì phát sinh mâu thuẫn trầm trọng. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong công việc, sinh hoạt và nuôi dạy con dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi mắng lẫn nhau. Do mâu thuẫn, vợ chồng chị hiện đã sống ly thân. Nay, chị X nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị X yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Y.

Về con chung: Chị Nguyễn Thị X khai: Chị và anh Nguyễn Văn Y có 03 con là Nguyễn Ngọc Z, sinh ngày 01 tháng 5 năm 2013; Nguyễn Thị M, sinh ngày 16 tháng 10 năm 2015 và Nguyễn Thị N, sinh ngày 21 tháng 8 năm 2019. Trường hợp ly hôn, chị X có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con là Nguyễn Ngọc Z và Nguyễn Thị N, chị X yêu cầu Tòa án giao cho anh Y trực tiếp nuôi con Nguyễn Thị M.

Về nghĩa cấp dưỡng nuôi con chung: Chị X khai chị và anh Y tự thỏa thuận giao nhận cho nhau nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Chị X khai chị và anh Nguyễn Văn Y không có tài sản chung nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 08 tháng 4 năm 2022, anh Nguyễn Văn Y (bị đơn) khai:

Về hôn nhân: Anh Nguyễn Văn Y thừa nhận lời khai của chị X về thời gian, điều kiện, hình thức kết hôn, nguyên nhân và tình trạng mâu thuẫn vợ chồng là đúng. Nay chị X xin ly hôn, quan điểm của anh Y nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên anh Y cũng đồng ý ly hôn chị X.

Về con chung: Anh Nguyễn Văn Y khai anh và chị Nguyễn Thị X có 03 con là Nguyễn Ngọc Z, sinh ngày 01 tháng 5 năm 2013; Nguyễn Thị M, sinh ngày 16 tháng 10 năm 2015 và Nguyễn Thị N, sinh ngày 21 tháng 8 năm 2019. Trường hợp ly hôn, anh Y có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con tên Nguyễn Thị M và yêu cầu Tòa án giao cho chị X đưcọ trực tiếp nuôi 02 con là Nguyễn Ngọc Z và Nguyễn Thị N.

Về nghĩa cấp dưỡng nuôi con chung: Anh Y khai anh và chị X tự thỏa thuận giao nhận cho nhau nên anh Y không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Anh khai anh và chị X không có tài sản chung nên anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng như sau: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã tiến hành giải quyết vụ án theo đúng trình tự thủ tục do pháp luật quy định. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 71 và Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn chưa thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 72 và Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng. Căn cứ khoản 1 và khoản 3 Điều 228; Điều 238 Bộ luật Tố tụng Dân sự, đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị X và anh Y. Về việc giải quyết vụ án: Tài liệu điều tra thể hiện quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị X và anh Nguyễn Văn Y đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị X và anh Y được ly hôn. Về con chung: Chị Nguyễn Thị X và anh Nguyễn Văn Y có 03 con chung là Nguyễn Ngọc Z, sinh ngày 01 tháng 5 năm 2013; Nguyễn Thị M, sinh ngày 16 tháng 10 năm 2015 và Nguyễn Thị N, sinh ngày 21 tháng 8 năm 2019. Căn cứ tài liệu điều tra xác minh khả năng, điều kiện nuôi con của mỗi bên, nguyện vọng của các đương sự và nguyện vọng của con chung, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình giao cho chị X trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung là Nguyễn Ngọc Z và Nguyễn Thị N cho đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Giao cho anh Y trực tiếp nuôi con Nguyễn Thị M cho đến khi con Nguyễn Thị M đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị X, anh Y thống nhất thỏa thuận tự giao nhận cho nhau, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Kiểm sát viên không đề cập giải quyết trong vụ án này. Về tài sản chung: Chị X, anh Y thống nhất khai không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Kiểm sát viên không đề cập giải quyết. Về nghĩa vụ nộp án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị X phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị X và anh Nguyễn Văn Y được xác lập vào năm 2013 là hợp pháp. Tài liệu điều tra xác minh thể hiện quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận hạnh phúc đến năm 2021 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong sinh hoạt, trong lao động và nuôi dạy con dẫn đến tình cảm vợ chồng ngày càng thờ ơ lạnh nhạt. Do mâu thuẫn nên chị X và anh Y hiện đã sống ly thân nhau. Chị X xin ly hôn, anh Y thừa nhận vợ chồng có tồn tại mâu thuẫn và tình cảm vợ chồng không còn nên anh Y cũng đồng ý ly hôn chị X. Điều này thể hiện quan hệ hôn nhân giữa chị X và anh Y đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy áp dụng khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn xử cho chị X và anh Y được ly hôn.

[2] Về con chung: Chị Nguyễn Thị X và anh Nguyễn Văn Y có 03 con chung là Nguyễn Ngọc Z, sinh ngày 01 tháng 5 năm 2013; Nguyễn Thị M, sinh ngày 16 tháng 10 năm 2015 và Nguyễn Thị N, sinh ngày 21 tháng 8 năm 2019. Khi ly hôn, chị X có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con Nguyễn Ngọc Z và Nguyễn Thị N. Anh Y có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con Nguyễn Thị M. Tuy nhiên, việc giao con cho ai nuôi cần phải xem xét mọi mặt và đảm bảo quyền lợi của con chưa thành niên. Tài liệu điều tra xác minh thể hiện chị X và anh Y đều có khả năng lao động và đủ điều kiện nuôi con. Mặt khác, cháu Nguyễn Ngọc Z có nguyện vọng được mẹ trực tiếp nuôi dưỡng. Vì vậy giao cho chị Nguyễn Thị X được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con là Nguyễn Ngọc Z và Nguyễn Thị N cho đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Giao cho anh Nguyễn Văn Y được trực tiếp nuôi dưỡng con Nguyễn Thị M cho đến khi con Nguyễn Thị M đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở là phù hợp với Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình và phù hợp với nguyện vọng của con chung.

[3] Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị X, anh Y thống nhất thỏa thuận tự giao nhận cho nhau, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết trong vụ án này.

[4] Về tài sản chung: Chị X, anh Y thống nhất khai không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[5] Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 - 12 - 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án thì chị Nguyễn Thị X phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[6] Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị X và anh Nguyễn Văn Y được quyền kháng cáo trong thời hạn do pháp luật quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; khoản 1, khoản 3 Điều 228; Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 - 12 - 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị X và anh Nguyễn Văn Y.

2. Về con chung: Giao cho chị Nguyễn Thị X được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con là Nguyễn Ngọc Z, sinh ngày 01 tháng 5 năm 2013 và Nguyễn Thị N, sinh ngày 21 tháng 8 năm 2019 cho đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Giao cho anh Nguyễn Văn Y được trực tiếp nuôi dưỡng con Nguyễn Thị M, sinh ngày 16 tháng 10 năm 2015 cho đến khi con Nguyễn Thị M đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị X phải nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng chị X đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0007838 ngày 08 tháng 3 năm 2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuỷ Nguyên, chị Nguyễn Thị X đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị X và anh Nguyễn Văn Y vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

170
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 92/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:92/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về