Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 91/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỦY NGUYÊN - THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 91/2022/HNGĐ-ST NGÀY 30/05/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 30 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 62/2022/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 3 năm 2022 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 75/2022/QĐST-HNGĐ ngày 28 tháng 4 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 76/2022/QĐST-HNGĐ ngày 16 tháng 5 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lê Ánh X; nơi cư trú: Thôn 5, xã K, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt (có đơn xin xét xử vắng mặt).

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn Y; nơi cư trú: Thôn 5, xã K, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện xin ly hôn đề ngày 18/01/2022 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, chị Lê Ánh X (nguyên đơn) khai:

Về hôn nhân: Chị Lê Ánh X và anh Nguyễn Văn Y kết hôn trên cơ sở tự nguyện, được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã K, huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng số 04 ngày 12/01/2015. Quá trình chung sống, vợ chồng chung sống hòa thuận hạnh phúc đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn trầm trọng. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong công việc, sinh hoạt và nuôi dạy con dẫn đến cuộc sống chung vợ chồng ngày càng thờ ơ, lạnh nhạt và không còn tình cảm thương yêu nhau. Mâu thuẫn vợ chồng đã được gia đình khuyên giải nhưng không thành. Do mâu thuẫn, vợ chồng chị hiện đã sống ly thân nhau. Nay, chị X nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị X yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Nguyễn Văn Y.

Về con chung: Chị Lê Ánh X khai: Chị và anh Nguyễn Văn Y có 01 con chung tên Nguyễn Công Z, sinh ngày 21 tháng 11 năm 2014. Trường hợp ly hôn, chị X có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung.

Về nghĩa cấp dưỡng nuôi con chung: Chị X khai chị và anh Nguyễn Văn Y tự thỏa thuận giao nhận cho nhau nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Chị X khai chị và anh Nguyễn Văn Y không có tài sản chung nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn là anh Nguyễn Văn Y đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng khác theo quy định của pháp luật song đến ngày mở phiên tòa, anh Y vẫn không có mặt để trình bày ý kiến về việc chị X xin ly hôn.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng như sau: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã tiến hành giải quyết vụ án theo đúng trình tự thủ tục do pháp luật quy định. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 71 và Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn chưa thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 72 và Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng. Căn cứ khoản 1 và khoản 3 Điều 228; Điều 238 Bộ luật Tố tụng Dân sự, đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị X và anh Y. Về việc giải quyết vụ án: Tài liệu điều tra thể hiện quan hệ hôn nhân giữa chị X và anh Y đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị X và anh Y được ly hôn. Về con chung: Chị Lê Ánh X và anh Nguyễn Văn Y có 01 con chung là Nguyễn Công Z, sinh ngày 21 tháng 11 năm 2014. Căn cứ tài liệu điều tra xác minh khả năng, điều kiện nuôi con của mỗi bên và nguyện vọng của các đương sự, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình giao cho chị Lê Ánh X trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Nguyễn Công Z cho đến khi con Nguyễn Công Z đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị X khai chị và anh Y tự thỏa thuận với nhau, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Kiểm sát viên không đề cập giải quyết trong vụ án này. Về tài sản chung: Chị X khai chị và anh Y không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Kiểm sát viên không đề cập giải quyết trong vụ án này. Về nghĩa vụ nộp án phí: Chị Lê Ánh X phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Lê Ánh X và anh Nguyễn Văn Y được xác lập vào năm 2015 là hợp pháp. Tài liệu điều tra xác minh thể hiện quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận hạnh phúc đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong sinh hoạt, trong lao động và nuôi dạy con dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi mắng lẫn nhau. Do mâu thuẫn nên chị X và anh Y hiện đã sống ly thân. Chị X xin ly hôn, Tòa án đã triệu tập anh Y nhiều lần để trình bày ý kiến về việc chị X xin ly hôn nhưng anh Y vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng. Điều này thể hiện quan hệ hôn nhân giữa chị X và anh Y đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy căn cứ khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn xử cho chị Lê Ánh X và anh Nguyễn Văn Y được ly hôn.

[2] Về con chung: Chị Lê Ánh X và anh Nguyễn Văn Y có 01 con chung là Nguyễn Công Z, sinh ngày 21 tháng 11 năm 2014. Khi ly hôn, chị X có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Tuy nhiên, việc giao con cho ai nuôi cần phải xem xét mọi mặt và đảm bảo quyền lợi của con chưa thành niên. Tài liệu điều tra xác minh thể hiện chị X có khả năng lao động và đủ điều kiện nuôi con. Vì vậy giao cho chị Lê Ánh X được trực tiếp nuôi dưỡng con Nguyễn Công Z, sinh ngày 21 tháng 11 năm 2014 cho đến khi con Nguyễn Công Z đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở là phù hợp với Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị X khai chị và anh Nguyễn Văn Y tự thỏa thuận giao nhận cho nhau, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết trong vụ án này.

[4] Về tài sản chung: Chị X khai chị và anh Nguyễn Văn Y không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết trong vụ án này.

[5] Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 - 12 - 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án thì chị Lê Ánh X phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[6] Về quyền kháng cáo: Chị Lê Ánh X và anh Nguyễn Văn Y được quyền kháng cáo trong thời hạn do pháp luật quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; khoản 1, khoản 3 Điều 228; Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 - 12 - 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Lê Ánh X và anh Nguyễn Văn Y.

2. Về con chung: Giao cho chị Lê Ánh X được trực tiếp nuôi dưỡng con Nguyễn Công Z, sinh ngày 21 tháng 11 năm 2014 cho đến khi con Nguyễn Công Z đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Lê Ánh X phải nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng chị X đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0007849 ngày 16 tháng 03 năm 2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuỷ Nguyên, chị Lê Ánh X đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Lê Ánh X và anh Nguyễn Văn Y vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

149
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 91/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:91/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về