TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG TRÔM, TỈNH BẾN TRE
BẢN ÁN 87/2022/HNGĐ-ST NGÀY 08/07/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 08 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre , mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 164/2022/TLST - HNGĐ ngày 28 tháng 4 năm 2022 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con ” theo Quyết định đưa vụ án r a xét xử số : 64/2022/QĐXXST - HNGĐ ngày 10 tháng 6 năm 2022 giữa các đương sự:
* Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị P - Sinh năm: 1981; địa chỉ: 491 ấp BL, xã BT, huyện GT, tỉnh Bến Tre; chỗ ở hiện nay: ấp TB, xã TT, huyện GT, tỉnh Bến Tre, vắng mặt - có yêu cầu giải quyết vắng mặt.
* Bị đơn: Anh Trần Minh T - Sinh năm: 1980; địa chỉ: ấp BL, xã BT, huyện GT, tỉnh Bến Tre, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện , trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn trình bày:
Về hôn nhân: Năm 2004, chị Nguyễn Thị P và anh Trần Minh T có tiến đến hôn nhân. Hôn nhân giữa anh chị là tự nguyện, anh chị có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán và có đăng ký kết hôn tại UBND xã BT, huyện GT, tỉnh Bến Tre vào ngày 14/8/2004.
Sau khi kết hôn anh chị sống hạnh phúc một vài năm thì phát sinh mâu thuẫn mà nguyên nhân là do cuộc sống chung có nhiều bất đồng quan điểm. Anh T ghen tuôn vô cớ, thường xuyên chửi và đuổi chị đi dẫn đến việc anh chị hay cãi vã và đã sống ly thân hơn 1 năm nay. Cho rằng tình cảm vợ chồng là không còn, không thể hàn gắn để đoàn tụ. Vì vậy, chị P yêu cầu được ly hôn với anh T.
Về con chung: Anh chị có 03 người con chung là Trần Thị Minh T - Sinh ngày 01/7/2000, Trần Minh K - Sinh ngày 06/01/2002, Trần Thị Minh N - Sinh ngày 03/3/2007.
Sau khi ly hôn chị P đồng ý việc cháu N sẽ do anh T tiếp tục nuôi dưỡng. Chị sẽ không cấp dưỡng nuôi con.
Đối với cháu Minh T và Minh K đã trưởng thành và có thể tự lo cho bản thân nên chị Phượng không có yêu cầu gì đối với 02 người con chung này.
Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về nợ chung: Không có.
Trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn trình bày:
Về hôn nhân: Cho rằng mình còn thương vợ, thương con nên anh không đồng ý ly hôn mà mong muốn được đoàn tụ. Trong thời gian chung sống, do nghi ngờ vợ không chung thủy nên anh có chửi và có lời lẽ không hay với chị Phượng.
Hiện tại anh biết việc anh nghi ngờ là sai, anh xin lỗi và mong chị Phượng quay về để lo cho con. Do không đồng ý ly hôn nên anh không có yêu cầu gì về con, tài sản.
Trường hợp phải ly hôn thì anh yêu cầu được nuôi con là cháu N. Anh không yêu cầu cấp dưỡng.
Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về nợ: Không có.
Phát biểu ý kiến của Kiểm sát viên:
Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án đã tiến hành giải quyết vụ án theo đúng quy định của pháp luật. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng về trình tự, thủ tục tố tụng.
Về quan điểm giải quyết vụ án:
Về hôn nhân: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị P đối với anh T.
Về con chung: Ghi nhận việc chị P, anh T thống nhất giao cháu Trần Thị Minh N - Sinh ngày 03/3/2007 cho anh T tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng. Ghi nhận việc anh T không yêu cầu chị P cấp dưỡng nuôi con.
Đối với Trần Thị Minh T - Sinh ngày 01/7/2000, Trần Minh K - Sinh ngày 06/01/2002 đã trưởng thành, có khả năng lao động và không ai có yêu cầu gì đối với 02 người con chung này nên không xem xét.
Về tài sản: Chị P, anh T không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.
Về nợ: Chị P, anh T khai không có nên không xem xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào diễn biến tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Đây là vụ án “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự. Do các bên tranh chấp và nguyên đơn có đơn khởi kiện nên Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền và phù hợp với quy định khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn có yêu cầu giải quyết vắng mặt, bị đơn đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do. Do vậy, việc Tòa án xét xử vắng mặt bị đơn là phù hợp với quy định tại Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về hôn nhân: Việc kết hôn giữa chị Nguyễn Thị P và anh Trần Minh T là tự nguyện. Anh chị có đăng ký kết hôn tại UBND xã BT, huyện GT, tỉnh Bến Tre vào ngày 14/8/2004. Đây là hôn nhân hợp pháp nên được pháp luật công nhận và bảo vệ.
Tuy nhiên, sau khi kết hôn và chung sống hạnh phúc một thời gian thì đời sống hôn nhân có nhiều mâu thuẫn và anh chị đã sống ly thân hơn 1 năm nay cho đến nay.
Trong quá trình giải quyết vụ án, chị P kiên quyết ly hôn với anh T. Đối với anh T mặc dù anh không đồng ý ly hôn nhưng anh cũng thừa nhận nguyên nhân mâu thuẫn là do hay ghen, nhiều lần xúc phạm chị P và hiện nay anh chị không còn sống chung. Giữa anh chị không còn quan tâm nhau mà mạnh ai nấy sống. Từ đó cho thấy, hôn nhân đã trở nên trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy, cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị P đối với anh T là phù hợp.
[3] Về con chung: Anh chị có 03 người con chung là Trần Thị Minh T - Sinh ngày 01/7/2000, Trần Minh K - Sinh ngày 06/01/2002, Trần Thị Minh N - Sinh ngày 03/3/2007.
Ghi nhận việc anh chị thống nhất sau khi ly hôn cháu N sẽ do anh T tiếp tục nuôi dưỡng.
Ghi nhận việc anh T không yêu cầu chị P cấp dưỡng nuôi con.
Đối với Trần Thị Minh T - Sinh ngày 01/7/2000, Trần Minh K - Sinh ngày 06/01/2002 đã trưởng thành, có khả năng lao động và không ai có yêu cầu gì đối với 02 người con chung này nên không xem xét.
[4] Về tài sản: Chị P, anh T không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.
[5] Về nợ: Chị P, anh T khai không có nên không xem xét.
[6] Xét đề nghị của Kiểm sát viên phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[7] Về án phí: Các đương sự phải nộp án phí theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các điều 56, 58, 81, 82, 83, 84, 85, 86 của Luật hôn nhân và gia đình;
Các điều 147, 271, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Điều 26, 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị P được ly hôn với anh Trần Minh T.
2. Về con chung: Giao cháu Trần Thị Minh N - Sinh ngày 03/3/2007 cho anh T tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng, hiện nay con đang sống với anh T.
Ghi nhận việc anh T không yêu cầu chị P cấp dưỡng nuôi con.
Người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con mà không ai được cản trở người đó thực hiện quyền này. Trường hợp người không trực tiếp nuôi con lợi dụng việc thăm con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm con của người không trực tiếp nuôi con.
Vì lợi ích của con chung cha, mẹ hoặc cơ quan có thẩm quyền có quyền yêu cầu Tòa án quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng nuôi con.
Đối với Trần Thị Minh T - Sinh ngày 01/7/2000, Trần Minh K - Sinh ngày 06/01/2002 đã trưởng thành, có khả năng lao động và chị P, anh T không có yêu cầu gì đối với 02 người con chung này nên không xem xét.
3. Về tài sản: Chị P, anh T không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.
4. Về nợ: Chị P, anh T khai không có nên không xem xét.
5. Về án phí sơ thẩm: Nguyên đơn tự nguyện nộp 300.000đồng (ba trăm ngàn đồng) tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đồng (ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí lệ phí Tòa án số 0007225 ngày 27/4/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. Nguyên đơn đã nộp đủ án phí.
6. Về quyền kháng cáo: Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 87/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 87/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Giồng Trôm - Bến Tre |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 08/07/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về