Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 79/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NHA TRANG, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 79/2021/HNGĐ-ST NGÀY 03/06/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 03 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 1306/2020/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 11 năm 2020 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 52/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 26 tháng 4 năm 2021 và quyết định hoãn phiên tòa số 37/2021/QĐST-HNGĐ ngày 17 tháng 5 năm 2021, giữa:

- Nguyên đơn: Bà Quang Thụy Th – Sinh năm: 1979 Địa chỉ: xx C, P, thôn X 2, xã V, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. Có mặt.

- Bị đơn: Ông Huỳnh Viết Q − Sinh năm: 1975 Địa chỉ: Thôn N, xã V, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và tại phiên tòa, nguyên đơn bà Quang Thụy Th trình bày:

Bà và ông Huỳnh Viết Q tự nguyện chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã V, thành phố N năm 2015.

Quá trình chung sống, vợ chồng không hạnh phúc, thường xuyên mâu thuẫn do ông Q không lo làm ăn mà đam mê cờ bạc, nghiện ma túy dẫn đến phá tán tài sản, của cải trong gia đình. Bà đã nhiều lần khuyên nhủ nhưng ông Q không thay đổi, vẫn chứng nào tật ấy. Do cuộc sống không hòa hợp đươc nên vợ chồng bà đã sống ly thân từ tháng 11 năm 2019 đến nay, không còn quan tâm, liên lạc với nhau. Nay bà nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Q.

Về con chung: Vợ chồng bà có 01 con chung là Huỳnh Nhật V, sinh ngày 17 tháng 7 năm 2015. Khi ly hôn, bà yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu ông Q cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với bị đơn ông Huỳnh Viết Q: Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án đối với ông Q nhưng ông Q không đến Tòa án để giải quyết vụ án và cũng không cung cấp văn bản trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Do đó, Tòa án không thu thập được lời khai của ông Huỳnh Viết Q đối với các vấn đề cần giải quyết của vụ án.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân thủ đúng các trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; nguyên đơn đã thực hiện đúng các quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình, riêng bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là đúng quy định.

- Về quan điểm giải quyết vụ án: Xét thấy mâu thuẫn giữa bà Quang Thụy Th và ông Huỳnh Viết Q đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, bà Quang Thụy Th được ly hôn với ông Huỳnh Viết Q; về con chung: giao cháu Huỳnh Nhật V, sinh ngày 17 tháng 7 năm 2015 cho bà Quang Thụy Th trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục, ông Q không phải cấp dưỡng nuôi con; về tài sản chung, nợ chung: Nguyên đơn xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bà Quang Thụy Th khởi kiện yêu cầu ly hôn, yêu cầu được nuôi con nên quan hệ pháp luật tranh chấp được xác định là “ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn ông Huỳnh Viết Q có địa chỉ tại thôn N, xã V, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa theo điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do. Vì vậy Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà Quang Thụy Th và ông Huỳnh Viết Q tự nguyện chung sống với nhau, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã V, thành phố N cấp giấy chứng nhận kết hôn số 52/2015, quyển số 01/2015 ngày 18 tháng 5 năm 2015 nên đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp.

Quá trình chung sống, bà Quang Thụy Th cho rằng cuộc sống hôn nhân giữa bà và ông Huỳnh Viết Q không hạnh phúc, nguyên nhân là do ông Q ham mê bài bạc, nghiện ma túy, không lo làm ăn, không quan tâm đến gia đình. Bà và ông Q đã sống ly thân từ tháng 11 năm 2019 đến nay. Nay bà không còn tình cảm với ông Q và yêu cầu được ly hôn với ông Q. Ông Huỳnh Viết Q đã được Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng không đến Tòa án để làm việc và tham gia phiên tòa, cũng không cung cấp văn bản trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu ly hôn của bà Quang Thụy Th. Điều này chứng tỏ ông Q có thái độ bỏ mặc, không có thiện chí hàn gắn, đoàn tụ gia đình. Như vậy, lời khai của bà Quang Thụy Th về việc gia đình bà có mâu thuẫn, không hạnh phúc là có cơ sở. Xét thấy: Mâu thuẫn vợ chồng giữa bà Quang Thụy Th và ông Huỳnh Viết Q đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của bà Quang Thụy Th.

[3] Về con chung: Bà Th và ông Q có 01 con chung là Huỳnh Nhật V, sinh ngày 17 tháng 7 năm 2015. Xét thấy: Cháu Vinh còn nhỏ tuổi nên cần nhiều sự quan tâm, chăm sóc của người mẹ và hiện đang sinh sống ổn định cùng mẹ. Vì vậy, để đảm bảo quyền lợi của con về mọi mặt, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà Quang Thụy Th về việc được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Huỳnh Nhật V.

Về cấp dưỡng nuôi con: Ông Huỳnh Viết Q không phải cấp dưỡng nuôi con do bà Quang Thụy Th không yêu cầu.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Bà Quang Thụy Th xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Bà Quang Thụy Th phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[6] Xét quan điểm giải quyết vụ án của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ khoản 1 Điều 51; Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Quang Thụy Th được ly hôn ông Huỳnh Viết Q.

2. Về con chung: Giao cháu Huỳnh Nhật V, sinh ngày 17 tháng 7 năm 2015 cho bà Quang Thụy Th trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến tuổi trưởng thành. Ông Huỳnh Viết Q không phải cấp dưỡng nuôi con do bà Quang Thụy Th không yêu cầu.

Ông Huỳnh Viết Q có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở, nhưng không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con của người trực tiếp nuôi dưỡng.

Vì quyền lợi của con, khi cần thiết, các bên đương sự có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Bà Quang Thụy Th xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về án phí: Bà Quang Thụy Th phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2016/0017771 ngày 02 tháng 11 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Nha Trang. Bà Quang Thụy Th đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

5. Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

128
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 79/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:79/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nha Trang - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 03/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về