TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THẠCH THÀNH, TỈNH THANH HOÁ
BẢN ÁN 65/2021/HNGĐ-ST NGÀY 15/09/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 15 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số:174/2021/TLST-HNGĐ ngày 09 tháng 8 năm 2021 về việc: “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:67/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 27 tháng 8 năm 2021, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Bùi Thị P; Sinh năm: 1993 Địa chỉ: Thôn T, xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa.
- Bị đơn: Anh Nguyễn Đình N; Sinh năm: 1993 Địa chỉ: Thôn Q, xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa.
Tại phiên tòa có mặt chị P và anh N.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện ngày 09/8/2021, bản tự khai ngày 12/8/2021 cũng như trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay chị Bùi Thị P trình bày:
Về hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Đình N kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 26/12/2013 tại Ủy ban nhân dân (Sau đây viết tắt là UBND) xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa. Sau ngày cưới tình cảm vợ chồng hòa thuận được 3 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do gia đình hoàn cảnh khó khăn, anh đi làm ăn xa nên có mối quan hệ với cô gái khác và về đánh đập chị. Từ năm 2016, chị đã gửi con cho nhà ngoại để đi làm. Tháng 7 năm 2021, anh N có lên xin lỗi và đón mẹ con chị về nhà nội. Tuy nhiên, sau khi về chung sống được một thời gian ngắn, anh N lại tiếp tục đánh đập chị nên chị lại về nhà bố mẹ đẻ sinh sống. Tình trạng hôn nhân như vậy kéo dài khiến chị vô cùng mệt mỏi và chán nản. Vì con, chị đã cố gắng chịu đựng nhưng vợ chồng vẫn không hòa hợp được. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh N.
Về con chung: Vợ chồng có 01con chung là cháu Nguyễn Tùng L, sinh ngày 09/05/2015. Sau khi ly hôn, chị có nguyện vọng được là người trực tiếp nuôi con và không yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị.
Về tài sản: Chị P không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại bản tự khai ngày 13/8/2021 và trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, anh Nguyễn Đình N trình bày:
Về hôn nhân: Anh và chị Bùi Thị P kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa vào ngày 26/12/2013. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống hòa thuận khoảng 5 đến 6 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng đi làm xa, thường xuyên phải xa nhau nên tình cảm dần phai nhạt. Trong thời gian anh đi làm xa nhà, chị P đã có quan hệ yêu đương với người đàn ông khác. Anh đã tha thứ cho chị P và đã lên nhà ngoại đón chị P về để vợ chồng đoàn tụ nhưng khi về chung sống thì vợ chồng cũng không hòa hợp được. Nay chị P làm đơn xin ly hôn với anh, anh xác định tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn được nữa nên anh cũng đồng ý ly hôn với chị P.
Về con chung: Anh đề nghị được nuôi con chung là cháu Nguyễn Tùng L, sinh ngày 09/5/2015, không yêu cầu chị P cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh.
Về tài sản: Anh N không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại phiên hòa giải ngày 19/8/2021, chị P cũng đồng ý giao con chung là cháu Nguyễn Tùng L cho anh N trực tiếp nuôi dưỡng, chị không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh N. Do đó, Tòa án đã lập biên bản ghi nhận sự tự nguyện ly hôn và hòa giải thành, nhưng đến ngày 23/8/2021 chị P lại xin thay đổi ý kiến đã thỏa thuận. Chị vẫn yêu cầu được nuôi con chung là cháu Nguyễn Tùng L và không yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị. Tòa án đã thông báo việc chị P có đơn xin yêu cầu thay đổi ý kiến thỏa thuận nhưng anh N không có ý kiến gì nên Tòa án Quyết định đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát: Tòa án đã xác định đúng quan hệ pháp luật và tư cách tố tụng của các đương sự trong vụ án. Từ giai đoạn thụ lý vụ án cho đến khi mở phiên tòa xét xử sơ thẩm, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án cũng như các thành viên của Hội đồng xét xử (Sau đây viết tắt là HĐXX) và Thư ký phiên tòa đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự (Sau đây viết tắt là BLTTDS). Nguyên đơn và bị đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật.
Về nội dung: Xét thấy giữa chị Bùi Thị P và anh Nguyễn Đình N mâu thuẫn đã đến mức trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, hạnh phúc hôn nhân không đạt được, nay cả chị P và anh N đều đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn.
Đề nghị áp dụng các Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình. Về hôn nhân, xử cho chị Bùi Thị P được ly hôn anh Nguyễn Đình N. Về con chung, giao cháu Nguyễn Tùng L, sinh ngày 09/5/2015 cho chị P trực tiếp nuôi dưỡng, anh N không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị P.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định:
[1]. Về tố tụng: Đây là vụ án Hôn nhân và gia đình có con chưa thành niên và trong quá trình giải quyết vụ án, do các bên đương sự chưa thống nhất được các vấn đề tranh chấp trong vụ án nên Tòa án đã tiến hành xác minh để xác định nguyên nhân của việc phát sinh tranh chấp theo khoản 3 Điều 208 BLTTDS và đã thông báo kết quả thu thập tài liệu chứng cứ cho các bên đương sự cũng nhưng VKS được biết.
[2]. Về hôn nhân: Chị Bùi Thị P và anh Nguyễn Đình N kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 26/12/2013 tại UBND xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa và không vi phạm các điều cấm của Luật hôn nhân và gia đình, là hôn nhân hợp pháp. Sau ngày cưới, vợ chồng sống hòa thuận đến năm 2016, thì sảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng tính tình không hòa hợp, không tin tưởng nhau trong chuyện tình cảm nên cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc. Việc này, cả chị P và anh N đều thừa nhận và cũng phù hợp với nội dung mà Tòa án đã tiến hành xác minh tại địa phương. Nay, cả chị P và anh N đều yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn, chứng tỏ mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, căn cứ điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, xử cho chị Bùi Thị P và anh Nguyễn Đình N được ly hôn.
[3]. Về con chung: Vợ chồng có một con chung. Ly hôn, cả chị P và anh N đều yêu cầu được trực tiếp nuôi con và không yêu cầu bên kia cấp dưỡng nuôi con chung. Xét thấy, yêu cầu của chị P và anh N đều chính đáng. Tuy nhiên, xét hoàn cảnh thực tế thì từ năm 2016 khi chị P và anh N không sống cùng nhau thì cháu luôn sinh sống và học tập tại xã T, do chị P và bố mẹ chị P trực tiếp chăm sóc. Việc này đã được UBND xã T và Trường mầm non xã T xác nhận. Mặt khác, bản thân cháu L đang còn rất nhỏ, rất cần sự chăm sóc của người mẹ, do đó nên giao cháu L cho chị P trực tiếp nuôi dưỡng sẽ phù hợp hơn cho sự phát triển của cháu. Việc cấp dưỡng nuôi con, chị P không yêu cầu nên HĐXX không xem xét.
[4]. Về tài sản: Chị P và anh N không yêu cầu Tòa án giải quyết nên miễn xét.
[5]. Về án phí: Chị Bùi Thị P phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 147 BLTTDS; Điều 6; Khoản 1 Điều 24; Điểm a, khoản 5, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.
1. Về hôn nhân: Xử cho chị Bùi Thị P và anh Nguyễn Đình N được ly hôn.
2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Tùng L, sinh ngày 09/5/2015 cho chị P trực tiếp nuôi dưỡng, anh N không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị P.
Anh N có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở.
3. Về án phí: Chị Bùi Thị P chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn, nhưng được trừ vào số tiền chị P đã nộp tạm ứng tại Chi cục Thi hành án dân sự Thạch Thành, theo biên lai số: AA/2018/0003228 ngày 09/8/2021. Chị P đã nộp đủ tiền án phí.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự.
Án xử công khai sơ thẩm, có mặt chị Bùi Thị P và anh Nguyễn Đình N. Chị P và anh N có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 65/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 65/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thạch Thành - Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 15/09/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về