TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 64/2023/HNGĐ-ST NGÀY 29/09/2023 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 29 tháng 9 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện K, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 93/2023/TLST-HNGĐ ngày 13 tháng 7 năm 2023 về “ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 53/2023/QĐXXST-HNGĐ ngày 07 tháng 9 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 40/2023/QĐST-HNGĐ ngày 22 tháng 9 năm 2023, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1990; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn 7, xã K1, huyện K, thành phố Hải Phòng; nơi ở hiện nay: Thôn 4, xã K1, huyện K, thành phố Hải Phòng; có mặt.
Bị đơn: Anh Phạm Năng Đ, sinh năm 1989; nơi cư trú: Thôn 7, xã K1, huyện K, thành phố Hải Phòng; vắng mặt nhưng đã được triệu tập hợp lệ.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn xin ly hôn ngày 30 tháng 6 năm 2023 và các lời khai trong hồ sơ vụ án, nguyên đơn Nguyễn Thị H trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Chị tự nguyện đăng ký kết hôn với anh Phạm Năng Đ từ năm 2013 tại Ủy ban nhân dân (viết tắt là UBND) xã K1, huyện K, thành phố Hải Phòng ngày 04 tháng 12 năm 2013 (Giấy chứng nhận kết hôn số 89). Quá trình chung sống, anh chị xảy ra mâu thuẫn trầm trọng từ cuối năm 2022 do bất đồng quan điểm sống, anh Đ ham chơi lô đề, có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác, vô trách nhiệm với vợ con và đánh chửi chị nhiều lần, mặc dù đã được hai bên gia đình khuyên giải nhưng anh Đ không thay đổi tính cách nên chị đã mang con về nhà mẹ đẻ ở từ tháng 5 năm 2023 đến nay, không quan tâm đến nhau cũng như cuộc sống chung gia đình. Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung không thể kéo dài, chị xin ly hôn anh Đ.
Về con chung: Anh chị có 02 con là Phạm Lan P, sinh ngày 03 tháng 10 năm 2014 và Phạm Lan V, sinh ngày 14 tháng 02 năm 2017, hiện đang do chị nuôi dưỡng. Nếu ly hôn, chị có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con đến khi các cháu đủ 18 tuổi; nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, giữa chị và anh Đ đã thỏa thuận, tự giao nhận với nhau, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Hiện tại chị làm nghề kinh doanh, thu nhập trung bình 15.000.000 đồng/ tháng, có chỗ ở ổn định.
Về tài sản, công nợ: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại biên bản lấy lời khai ngày 31 tháng 7 năm 2023, anh Phạm Năng Đ trình bày thống nhất với chị H về thời gian, điều kiện kết hôn. Quá trình chung sống, anh chị xảy ra mâu thuẫn từ đầu tháng 5 năm 2023 do bất đồng quan điểm sống, bản thân anh ham chơi, không quan tâm đến cuộc sống gia đình vợ, con, từ đó vợ chồng thường xuyên xúc phạm nhau. Mâu thuẫn đã được hai bên gia đình khuyên giải nhiều lần nhưng không có kết quả, chị H mang con bỏ về nhà mẹ đẻ ở từ cuối tháng 5 năm 2023 đến nay không ai quan tâm đến cuộc sống chung nhưng anh vẫn còn tình cảm với chị H, anh xin đoàn tụ để nuôi dạy con chung.
Về con chung: Anh chị có 02 con chung như chị H đã trình bày, nếu ly hôn, anh đồng ý để chị H được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con đến khi các cháu đủ 18 tuổi; nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, giữa anh và chị H đã thỏa thuận tự giao nhận với nhau, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về tài sản, công nợ: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại phiên tòa, chị H giữ nguyên toàn bộ nội dung, yêu cầu nêu trên.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện K phát biểu ý kiến:
- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án. Nguyên đơn chấp hành đầy đủ quy định của pháp luật tại các Điều 70, 71 và 234 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn chưa chấp hành đầy đủ quy định của pháp luật tại các Điều 70, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Sự vắng mặt của bị đơn tại phiên tòa nhưng đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai. Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là đúng quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Đề nghị Hội đồng xét xử:
- Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thị H; cho chị Nguyễn Thị H được ly hôn anh Phạm Năng Đ.
- Về con chung: Giao cháu Phạm Lan P, sinh ngày 03 tháng 10 năm 2014 và cháu Phạm Lan V, sinh ngày 14 tháng 02 năm 2017 cho chị Nguyễn Thị H trực tiếp nuôi dưỡng đến khi các cháu đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật; nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, hai bên đương sự đã thỏa thuận tự giao nhận với nhau, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.
- Về tài sản, công nợ: Đương sự không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.
- Về án phí: Chị Nguyễn Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
- Về tố tụng:
[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Chị Nguyễn Thị H xin ly hôn anh Phạm Năng Đ và yêu cầu giải quyết nuôi con tại Tòa án nhân dân huyện K. Anh Đ đang cư trú tại xã K1, huyện K, thành phố Hải Phòng; căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, xác định đây là quan hệ pháp luật về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện K.
[2] Về việc giải quyết vắng mặt đương sự: Bị đơn là anh Phạm Năng Đ vắng mặt tại phiên tòa không có lý do nhưng đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai; căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh Đ.
- Về nội dung:
[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị H xin ly hôn anh Phạm Năng Đ; căn cứ vào lời khai của các bên đương sự và các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án cũng như chính quyền xã K1 cung cấp thì hôn nhân của chị Nguyễn Thị H và anh Phạm Năng Đ là hôn nhân hợp pháp. Thời gian chung sống, anh chị phát sinh mâu thuẫn từ cuối năm 2022, do bất đồng quan điểm sống, anh Đ ham chơi lô đề và có biểu hiện không chung thủy, vô trách nhiệm với vợ con, đánh chửi chị H nhiều lần, bản thân anh Đ cũng thừa nhận anh có lỗi. Mâu thuẫn đã được gia đình khuyên giải nhiều lần nhưng không có kết quả, vợ chồng đã sống ly thân và không quan tâm đến nhau cũng như cuộc sống chung. Như vậy đủ cơ sở xác định hôn nhân của anh chị thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài; yêu cầu xin ly hôn của chị H có cơ sở chấp nhận nên xử cho chị H được ly hôn anh Đ là phù hợp với các Điều 51, 56 của Luật Hôn nhân và gia đình cũng như quan điểm của Kiểm sát viên tại phiên tòa. Không chấp nhận yêu cầu xin đoàn tụ của anh Đ.
[4] Về nuôi con chung: Anh chị có 02 con chung là Phạm Lan P, sinh ngày 03 tháng 10 năm 2014; Phạm Lan V, sinh ngày 14 tháng 02 năm 2017. Nếu ly hôn, chị H và anh Đ đều thống nhất chị H trực tiếp nuôi dưỡng cả 02 con đến khi các cháu đủ 18 tuổi; nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, anh, chị thỏa thuận tự giao nhận với nhau, không yêu cầu Tòa án giải quyết (tại biên bản hòa giải ngày 18/8/2023), mặt khác nguyện vọng của cháu P được ở với chị H. Do đó cần giao cháu P, cháu V cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với các Điều 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình, được chấp nhận.
[5] Về tài sản, công nợ: Các đương sự không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.
[6] Về án phí: Chị Nguyễn Thị H không thuộc trường hợp được miễn án phí nên phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
[7] Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; căn cứ các Điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, 1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị H được ly hôn anh Phạm Năng Đ.
2. Về con chung: Giao cháu Phạm Lan P, sinh ngày 03 tháng 10 năm 2014 và cháu Phạm Lan V, sinh ngày 14 tháng 02 năm 2017 cho chị Nguyễn Thị H trực tiếp nuôi dưỡng đến khi các cháu đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật; nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, hai bên đương sự đã thỏa thuận tự giao nhận với nhau, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.
Sau khi ly hôn, anh Phạm Năng Đ có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
3. Về tài sản, công nợ: Không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.
4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị H phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp 300.000 đồng theo biên lai số 0001964 ngày 13 tháng 7 năm 2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện K. Chị H đã chịu đủ án phí dân sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị H có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Anh Phạm Năng Đ có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án.
Trong trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 64/2023/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 64/2023/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Kiến Thuỵ - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 29/09/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về