Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 60/2022/HNGĐ-ST

A ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN BÌNH – TỈNH YÊN BÁI

BẢN ÁN 60/2022/HNGĐ-ST NGÀY 16/09/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 16 tháng 9 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 138/2022/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 7 năm 2022 về: Ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 54/2022/QĐXX - ST ngày 12 tháng 8 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 42/2022/QĐST-HNGĐ ngày 30 tháng 8 năm 2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Lê Thị H, sinh năm 1976.

Bị đơn: Ông Phan Kế D, sinh năm 1972 Cùng địa chỉ:Thôn T, xã P, huyện Y, tỉnh Yên Bái.

(Ông D vắng mặt, bà Hcó đơn xin xét xử vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

*Tại đơn khởi kiện, bản tự khai, quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn – bà Lê Thị H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà kết hôn với ông Phan Kế D trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện Y, tỉnh Yên Bái ngày 26-5-2000.

Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống không hạnh phúc. Cuộc sống vợ chồng có nhiều mâu thuẫn, bất đồng quan điểm sống. Khoảng 10 năm nay ông Phan Kế D thường xuyên uống rượu say, đánh đập, chửi bới, xúc phạm bà. Mặc dù bà đã khuyên bảo ông D nhiều lần nhưng ông D không thay đổi bản thân. Gần đây nhất là đầu tháng 7/2022, bà về chăm mẹ đẻ ốm nằm viện 500 giường, Yên Bái ông D tìm đến tậm bệnh viện, dùng dao đe dọa bà, may được mọi người can ngăn không ảnh hưởng đến tính mạng. Đến nay, bà xác định tình cảm vợ chồng với ông D không còn và đề nghị Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Phan Kế D.

Về nuôi con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Phan Văn C– sinh ngày 27- 3-2001 đã trưởng thành, tự lo được cuộc sống của cháu nên bà không yêu cầu Tòa án giải quyết; Cháu Phan Ngọc L – sinh ngày 23-8-2005, bà nhất trí giao cháu Lcho ông D nuôi dưỡng vì hiện nay cháu đang ở với bố ổn định.

Về chia tài sản và nợ chung: Bà không yêu cầu Tòa án giải quyết.

*Quá trình giải quyết vụ án, có lời khai của bị đơn - ông Phan Kế D trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Về thời gian, địa điểm và các điều kiện kết hôn như lời trình bày của bà H là đúng. Quá trình chung sống có cãi chửi nhau, ông có tát bà H, lần gần đây nhất vào tháng 7- 2022 bà H có về chăm mẹ ở bệnh viện 500 giường, ông có gọi bà H về nhà nhưng bà Hkhông đồng ý nên ông có dùng dao dọa bà H. Mâu thuẫn của vợ chồng được hai bên gia đình hòa giải nhưng bà H không đồng ý. Đến nay, bà H xin ly hôn, ông không nhất trí mong muốn vợ chồng về đoàn tụ - Về nuôi con chung: Vợ chồng có 02 con chung như bà H đã trình bày, Đối với cháu C đã trưởng thành nên ông không yêu cầu Tòa án giải quyết. Đối với cháu L ông có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cháu cho đến khi đủ 18 tuổi, ông không yêu cầu bà H cấp dưỡng nuôi con.

Về chia tài sản và nợ chung: Ông không yêu cầu Tòa án cầu giải quyết.

Ý kiến của con chung: Cháu Phan Ngọc L có nguyện vọng ở với bố.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành báo gọi các đương sự để hòa giải nhưng ông D không đến Tòa án nên không hòa giải được.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Bình tại phiên tòa: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án tại phiên tòa, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự; quyền và nghĩa vụ của đương sự được đảm bảo đúng quy định của pháp luật. Đề nghị HĐXX áp dụng Khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân gia đình; khoản 4 Điều 147, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị H để xử cho bà Lê Thị H được ly hôn với ông Phan Kế D. Về nuôi con chung: Giao cháu Phan Ngọc L – sinh ngày 23-8-2005 cho ông Phan Kế Dtrực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục cho đến khi đủ 18 tuổi hoặc khi có sự thay đổi; về án phí: Bà Lê Thị H phải chịu án phí dân sự theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà Hội đồng xét xử nhận định:

[1]Về tố tụng: Ông Phan Kế D có đăng ký hộ khẩu thường trú tại thôn T, xã P, huyện Y, tỉnh Yên Bái nên yêu cầu ly hôn của bà Lê Thị H thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Yên Bình.

Bà Lê Thị H và ông Phan Kế D đã được Tòa án tống đạt hợp lệ. Bà H có đơn xin xét xử vắng mặt, ông D vắng mặt lần thứ hai tại phiên tòa. Vì vậy, Tòa án nhân dân huyện Yên Bình xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định tại điểm a, b khoản 1 Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị H và ông Phan Kế D kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện Y, tỉnh Yên Bái ngày 26-5- 2000, vì vậy quan hệ hôn nhân giữa ông bà là hợp pháp.

Trong quá trình giải quyết vụ án, bà H và ông D đều thừa nhận trong quá trình chung sống vợ chồng có mâu thuẫn do ông D chửi bới, xúc phạm và đánh bà H, mâu thuẫn vợ chồng đã được hai bên hòa giải nhưng không có kết quả. Mặc dù, ông D không nhất trí ly hôn nhưng ông cũng không tìm ra được biện pháp tích cực nào hàn gắn tình cảm vợ chồng, đến nay bà H xác định mâu thuẫn không thể khắc phục, bà xác định tình cảm vợ chồng đã hết, không muốn hòa giải và để đảm bảo an toàn tính mạng bà đề nghị được ly hôn. Từ đó có căn cứ cho thấy tình trạng hôn nhân giữa bà Lê Thị H và ông Phan Kế D đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không còn tồn tại, mục đích hôn nhân không đạt được. Yêu cầu xin ly hôn của bà Lê Thị H là có căn cứ. Vì vậy, cần áp dụng khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân gia đình để xử cho bà Lê Thị H được ly hôn ông Phan Kế D.

[3] Về nuôi con chung: Bà Lê Thị H và ông Phan Kế D có hai con chung là Phan Văn C – sinh ngày 27-3-2001 và Phan Ngọc L – sinh ngày 23-8-2005. Hiện nay con chung Phan Văn C đã trưởng thành nên Hội đồng xét xử không xem xét. Đối với con chung Phan Ngọc L, bà H và ông D đều có nguyện vọng giao cháu cho ông D trực tiếp nuôi dưỡng, xét yêu cầu của bà H và ông D đều phù hợp với thực tế và phù hợp với nguyện vọng của con chung nên cần chấp nhận. Về cấp dưỡng nuôi con: Do ông D không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về chia tài sản và nợ chung: Bà H và ông Dkhông yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa: Đại diện Viện kiểm sát đã phát biểu ý kiến về quá trình thụ lý, giải quyết của Thẩm phán, thư ký, của Hội đồng xét xử, của người tham gia tố tụng tại phiên tòa và quan điểm giải quyết nội dung vụ án đúng theo quy định của pháp luật.

[6] Về án phí: Bà Lê Thị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 57, Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014; Khoản 4 Điều 147, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban hường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

1.Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị được ly hôn ông Phan Kế D 2.Về nuôi con chung: Giao con chung là Phan Ngọc L – sinh ngày 23-8-2005 cho ông Phan Kế D trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục cho đến khi đủ 18 tuổi hoặc khi có sự thay đổi.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.

3.Về án phí: Bà Lê Thị H phải nộp 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp tại biên lai số: 0001731 ngày 11-7-2022 của chi cục thi hành án dân sự huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái (xác nhận bà H đã nộp đủ).

Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trưng hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các điều 6,7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự./ 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

111
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 60/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:60/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Bình - Yên Bái
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về