Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 59/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐB, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 59/2022/HNGĐ-ST NGÀY 22/09/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 22 tháng 9 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ B, tỉnh Điện Biên, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 192/2022/TLST- HNGĐ ngày 21 tháng 7 năm 2022 về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 61/2022/QĐXXST- HNGĐ, ngày 22 tháng 8 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 49/2022/QĐST- HNGĐ ngày 06/9/2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Quàng Thị T; sinh năm: 1997;

Địa chỉ: Bản P K, xã T N, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên (có mặt tại phiên tòa).

2. Bị đơn: Anh Lò Văn T 1; sinh năm: 1994.

Địa chỉ: Bản P K, xã T N, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên (vắng mặt không lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 21/7/2022 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Quàng Thị T trình bày:

1. Về hôn nhân: Chị Quàng Thị T và anh Lò Văn T 1 kết hôn trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, không ai ép buộc, có đi đăng ký kết hôn tại UBND xã T N, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên vào ngày 31 tháng 12 năm 2015. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc, sau đó đến tháng 02/2021 thì luôn phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân chính là do anh T 1 nghiện ma tuý, tôi và gia đình đã nhiều lần khuyên can nhưng anh T 1 không nghe, quan điểm sống bất đồng, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, không có tiếng nói chung. Mặc dù đã được hai bên gia đình hòa giải nhưng mâu thuẫn không giải quyết được. Tôi và anh T 1 đã sống ly T 1 từ tháng 02/2021 cho đến nay, không ai còn quan tâm đến cuộc sống của nhau nữa. Nay tôi xác định tình cảm vợ chồng không còn, hôn nhân không hạnh phúc, vì vậy tôi đã làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Đ B, tỉnh Điện Biên giải quyết cho ly hôn với anh T 1.

2. Về con chung: Vợ chồng chúng tôi có 01 con chung là cháu Lò Duy K; sinh ngày 24/02/2017. Nguyện vọng sau khi ly hôn tôi là người trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục nuôi cháu Lò Duy K cho đến khi cháu đủ tuổi thành niên hoặc khi có thay đổi khác.

Về vần đề cấp dưỡng nuôi con chung: Tôi không yêu cầu Toà án giải quyết.

3. Về tài sản riêng; tài sản chung; nợ phải trả; nợ lấy về và diện tích ruộng nương:

Không có.

Ngày 21/7/2022, sau khi thụ lý vụ án theo đơn khởi kiện ly hôn của chị Quàng Thị T. Toà án nhân dân huyện Đ B, tỉnh Điện Biên đã thông báo thụ lý vụ án số:

192/2022/TLST- HNGĐ ngày 21 tháng 7 năm 2022 và đã liên lạc bằng điện thoại, xuống tống đạt trực tiếp cho anh Lò Văn T 1 tuy nhiên đã đến nhiều lần nhưng anh T 1 không có mặt ở nhà, liên lạc bằng điện thoại thì anh T 1 từ chối nhận, anh T 1 không hợp tác và cũng không có ý kiến phải hồi bằng văn bản cho Tòa án. Tòa án đã làm việc với Trưởng bản P K, xã T N, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên nơi anh T 1 cư trú thì Trưởng bản P K, xã T N, cho biết anh T 1 đăng ký hộ khẩu Tờng trú tại bản P K, xã T N, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên nhưng hiện nay anh T 1 đi đâu, làm gì chính quyền địa phương không rõ chỉ thấy anh T 1 đi về nhà thất Tờng. Do đó, Tòa án đã phải thực hiện việc tống đạt các văn bản tố tụng bằng hình thức niêm yết công khai theo quy định của pháp luật tại Bản P K, xã T N, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên và UBND xã T N, huyện Đ B; Tòa án nhân dân huyện Đ B, tỉnh Điện Biên nhưng đến thời điểm này anh T 1 cũng không có ý kiến phản hồi. Do vậy, Toà án không thể tiến hành hoà giải được, Tòa án đã ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 61/2022/QĐXXST- HNGĐ, ngày 22 tháng 8 năm 2022, tại phiên tòa anh T 1 vắng mặt không lý do. Hội đồng xét xử đã ra Quyết định hoãn phiên tòa, phiên tòa xét xử vụ án được ấn định vào hồi 15 giờ 30 phút ngày 22/9/2022. Tất cả các thủ tục như: Thông báo thụ lý vụ án; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải; Thông báo kết quả về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải và Thông báo kết quả về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, ; Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Quyết định hoãn phiên tòa, giấy triệu tập đương sự đều được Tòa án niêm yết công khai theo đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa hôm nay bị đơn anh Lò Văn T 1 đã được triệu tập hợp lệ 02 lần nhưng vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng. Căn cứ quy định tại điểm b Khoản 2 Điều 227/BLTTDS, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử theo đúng quy định. Chị Quàng Thị T vẫn giữ nguyên yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn, yêu cầu Tòa án giải quyết về vấn đề con chung; về quan hệ tài sản không có như nội dung trong đơn khởi kiện và bản tự khai chị đã trình bày.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, qua thẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Về thủ tục thụ lý việc khởi kiện của nguyên đơn: Ngày 21/7/2022 chị Quàng Thị T nộp đơn khởi kiện về việc Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn tại Tòa án nhân dân huyện Đ B, tỉnh Điện Biên đối với anh Lò Văn T 1 có địa tại bản P K, xã T N, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên. Ngày 21/7/2022 chị T đã nộp tạm ứng án phí theo Điều 146 Bộ luật tố tụng Dân sự (sau đây ghi tắt là BLTTDS) và nộp biên lai thu tiền tạm ứng án phí cho Tòa án, cùng ngày Tòa án đã thụ lý vụ án để giải quyết yêu cầu khởi kiện của chị T theo Điều 195 BLTTDS.

Về thẩm quyền giải quyết: Yêu cầu Ly hôn giữa chị Quàng Thị T và anh Lò Văn T 1 thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đ B, tỉnh Điện Biên theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 BLTTDS.

Các vấn đề khác: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân huyện Đ B, tỉnh Điện Biên đã thực hiện đúng qui định tại các Điều 177; Điều 179/ BLTTDS, việc anh T 1 không thực hiện quyền và nghĩa vụ được quy định tại các Điều 70; Điều 72/BLTTDS là do anh T 1 đã tự từ bỏ quyền và nghĩa vụ của mình. Cho nên căn cứ điểm b Khoản 2 Điều 227/BLTTDS. Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử theo đúng quy định của pháp luật.

[2] Về nội dung.

[2.1] Xét về hôn nhân: Chị Quàng Thị T và anh Lò Văn T 1 có đi đăng ký kết hôn tại UBND xã T N, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên. Như vậy, hôn nhân giữa chị T và anh T 1 đảm bảo về điều kiện kết hôn, đăng ký kết hôn theo quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật Hôn nhân và Gia đình và là hôn nhân hợp pháp.

Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc và đã có 01 con chung. Theo chị T cuộc sống vợ chồng thời gian đầu có hạnh phúc, sau đó đến tháng 02/2021 thì luôn phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân chính là do anh T 1 nghiện ma tuý, chị và gia đình đã nhiều lần khuyên can nhưng anh T 1 không nghe, quan điểm sống bất đồng, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, không có tiếng nói chung. Mặc dù đã được hai bên gia đình hòa giải nhưng mâu thuẫn không giải quyết được. Chị T và anh T 1 đã sống ly T 1 từ tháng 02/2021 cho đến nay, không ai còn quan tâm đến cuộc sống của nhau nữa, nay chị T xin được ly hôn với anh T 1. Tòa án đã thông báo cho anh T 1 được biết, nhưng anh T 1 từ chối nhận và anh T 1 không hợp tác và cũng không có ý kiến phải hồi bằng văn bản cho Tòa án. Tòa đã triệu tập anh T 1 nhiều lần đều vắng mặt và vắng mặt tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ; vắng mặt tại các buổi hòa giải do Tòa án tổ chức nên không hòa giải được. Tòa đã tiến hành mọi thủ tục niêm yết theo đúng quy định của pháp luật, nhưng anh T 1 vẫn không đến Tòa. Điều này chứng tỏ tình trạng hôn nhân giữa chị T và anh T 1 đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Tại phiên tòa chị T vẫn giữ nguyên quan điểm và đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh T 1. Hội đồng xét xử xét thấy, để đảm bảo quyền lợi của đương sự và để giải phóng cho chị T khỏi tình trạng hiện tại khi mà hôn nhân không thể đem lại hạnh phúc, nên chấp nhận đơn xin ly hôn của chị T và áp dụng Điều 51, Điều 56 Luật hôn nhân gia đình, xử cho ly hôn giữa chị Quàng Thị T và anh Lò Văn T 1.

[2.2] Xét về con chung: Chị Quàng Thị T có nguyện vọng được trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung là cháu Lò Duy K; sinh ngày 24/02/2017. Xét thấy cháu Lò Duy K còn nhỏ rất cần mẹ chăm sóc, nuôi dưỡng vì hiện tại anh T 1 cũng Tờng xuyên vắng nhà, đi đâu làm gì gia đình cũng không ai biết, hiện tại chị T mới là người có đủ điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc con chung.

Theo đơn xác nhận tình trạng hôn nhân của chị T cung cấp cho Tòa án đã được Lãnh đạo bản P K, xã T N, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên và UBND xã T N, huyện Đ B xác nhận thì vợ chồng chị T và anh T 1 khi còn chung sống đã Tờng xảy ra mâu thuẫn cãi nhau, vợ chồng không có tiếng nói chung, bản T 1 anh chị đã sống ly T 1 từ lâu, không ai còn quan tâm đến cuộc sống của nhau nữa, anh T 1 Tờng xuyên vắng nhà đi đâu và làm gì chị T và Lãnh đạo Bản cũng không biết, vì vậy anh T 1 không đủ điều kiện và thời gian chăm sóc con chung, không đảm bảo được sự phát triển của trẻ. HĐXX thấy rằng hiện tại chị T mới là người có đủ điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc con chung. Căn cứ Điều 69 và Điều 81; Điều 82 Luật Hôn nhân gia đình chấp nhận nguyện vọng của chị T. HĐXX giao con chung cho chị T được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục cho đến khi cháu đủ tuổi thành niên hoặc khi có khả năng lao động. Anh T 1 có quyền đi lại thăm con chung không ai được cản trở.

[2.3] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nên Hội đồng xét xử chấp nhận sự tự nguyện nuôi con của chị T.

[3] Xét về tài sản: Về tài sản riêng; tài sản chung; nợ phải trả; nợ lấy về và diện tích ruộng nương: Chị T khai không có. HĐXX không xem xét.

[4] Về nghĩa vụ chịu án phí: Theo quy định tại khoản 4 Điều 147/BLTTDS; Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Tờng vụ Quốc Hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, chị Quàng Thị T phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

[5] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39, Khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ Khoản 1 Điều 51; Khoản 1 Điều 56; Điều 57; Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Tờng vụ Quốc Hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Quàng Thị T và anh Lò Văn T 1.

2. Về con chung: Giao con chung là cháu Lò Duy K; sinh ngày 24/02/2017 cho chị Quàng Thị T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho đến khi cháu Duy K thành niên hoặc khi có thay đổi khác. Anh T 1 không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được cản trở.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên đương sự, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con chung.

3. Về chia tài sản chung; Tài sản riêng; Tài sản chung; Nợ phải trả; Nợ lấy về;

diện tích ruộng: Không có.

4. Về án phí: Áp dụng khoản 4 Điều 147/BLTTDS; Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Tờng vụ Quốc Hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, chị Quàng Thị T phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí DSST chị T đã nộp theo biên lai thu tiền số 0005012 ngày 21/7/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ B, tỉnh Điện Biên. Chị T đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng các Điều 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự chị Quàng Thị T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Anh Lò Văn T 1 vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày Tòa án niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

64
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 59/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:59/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về