Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 55/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 55/2021/HNGĐ-ST NGÀY 30/08/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 30 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện K xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 112/2021/TLST-HNGĐ, ngày 21 tháng 6 năm 2021 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 48/2021/QĐXX-ST ngày 04 tháng 8 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 29/2021/QĐST-HNGĐ ngày 18 tháng 8 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Phạm Thị K, sinh năm 1988; địa chỉ cư trú: Thôn T, xã H, huyện K, thành phố Hải Phòng; Có mặt tại phiên tòa.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Quang Đ, sinh năm 1983; địa chỉ cư trú: Thôn T, xã H, huyện K, thành phố Hải Phòng; Vắng mặt nhưng đã được triệu tập hợp lệ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn ngày 15/6/2021 và bản tự khai ngày 25/6/2021 chị K trình bày: Chị tự nguyện kết hôn với anh Nguyễn Quang Đ thời gian năm 2007, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện K. Nói chung vợ chồng sống hạnh phúc được khoảng 13 năm. Tuy nhiên trong quá trình sống chung mâu thuẫn vợ chồng phát sinh từ đầu năm 2021 do phong cách sống không còn phù hợp, vợ chồng không thống nhất trong quản lý chi tiêu kinh tế gia đình; anh Đ và gia đình đối xử với chị không công bằng; anh Đ ghen tuông vô cớ đối với chị, làm ảnh hưởng đến danh dự của chị. Vợ chồng thường xuyên xảy ra đánh cãi nhau. Mặc dù chị đã cố gắng sống chịu đựng, nhiều lần góp ý để anh Đ thay đổi cách sống, mâu thuẫn giữa anh chị cũng đã được gia đình và thôn xóm hòa giải để vợ chồng trở lại sống Đ tụ nhưng không thành mà càng trầm trọng hơn. Hai người sống ly thân từ tháng 5 năm 2021 đến nay, không ai quan tâm đến cuộc sống chung. Do tình trạng hôn nhân ngày càng trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, chị xin ly hôn anh Đ.

Về con chung: Có 02 con là Nguyễn Quang K1, sinh ngày 04/01/2008 và Nguyễn Quang K2, sinh ngày 01/4/2014. Chị nhất trí để anh Đ tiếp tục nuôi dưỡng hai cháu đến khi đủ 18 tuổi; trên cơ sở nguyện vọng của 02 cháu. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con; giữa chị K và anh Đ thỏa thuận tự giao nhận với nhau, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản, công nợ: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Anh Nguyễn Quang Đ trình bày tại bản tự khai ngày 28/6/2021: Thống nhất với chị K về thời gian kết hôn, thời gian vợ chồng chung sống hạnh phúc. Mâu thuẫn vợ chồng phát sinh từ đầu năm 2021 do phong cách sống không phù hợp, vợ chồng không thống nhất trong quản lý chi tiêu kinh tế gia đình; chị K chung sống với gia đình chồng không hòa hợp; khi vợ chồng xảy ra đánh cãi nhau anh tức giận có ghen tuông vô cớ đối với chị, sau đó anh đã cùng gia đình, thôn xóm nhiều lần hòa giải để vợ chồng trở lại sống Đ tụ nhưng không thành. Hai người sống ly thân từ tháng 5 năm 2021 đến nay, không ai quan tâm đến cuộc sống chung. Nay anh thừa nhận mâu thuẫn vợ chồng đã rất trầm trọng, cuộc sống chung không còn tồn tại. Nhưng anh mong muốn vợ chồng bỏ qua những mâu thuẫn trước đây để Đ tụ nuôi dạy con chung.

Về con chung: Có 02 con là Nguyễn Quang K1, sinh ngày 04/01/2008 và Nguyễn Quang K2, sinh ngày 01/4/2014. Nếu ly hôn anh xin tiếp tục nuôi dưỡng hai cháu đến khi đủ 18 tuổi; trên cơ sở nguyện vọng của 02 cháu. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con; giữa anh Đ và chị K thỏa thuận tự giao nhận với nhau, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản, công nợ: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện K phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án:

Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án.

Nguyên đơn chấp hành đầy đủ các quy định của pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án.

Bị đơn không chấp hành đầy đủ nghĩa vụ quy định tại khoản 15, 16 Điều 70, khoản 1 Điều 72 Bộ luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án.

Về việc giải quyết vụ án:

Căn cứ hồ sơ vụ án, các tài liệu, chứng cứ đã được Hội đồng xét xử xem xét công khai và kết quả tranh tụng tại phiên tòa xét thấy:

1. Về tố tụng: Anh Đ là bị đơn vắng mặt tại phiên tòa, nhưng đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; đề nghị Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định của pháp luật.

2. Về quan hệ hôn nhân: Chị K và anh Đ tự nguyện kết hôn năm 2007, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện K. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến đầu năm 2021 thì phát sinh mâu thuẫn đến nay ngày càng trầm trọng. Hai người sống ly thân từ tháng 5 năm 2021 đến nay, không ai quan tâm đến cuộc sống chung. Nay chị K xin ly hôn, anh Đ xin Đ tụ để nuôi dạy con chung. Xét yêu cầu của hai bên thấy rằng tình trạng hôn nhân của vợ chồng rất trầm trọng, tình cảm không còn, cuộc sống chung không thể kéo dài; Nên chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị K là phù hợp. Căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình; đề nghị Hội đồng xét xử: Xử cho chị Phạm Thị K được ly hôn anh Nguyễn Quang Đ.

3. Về con chung: Anh chị có 02 con chung là Nguyễn Quang K1, sinh ngày 04/01/2008 và Nguyễn Quang K2, sinh ngày 01/4/2014. Nay anh chị đều thống nhất: Giao cháu K1 và cháu K2 cho anh Đ nuôi dưỡng đến khi cả 02 cháu đủ 18 tuổi; và cháu K1, cháu K2 đều có nguyện vọng được ở với anh Đ, cần chấp nhận. Căn cứ vào Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; đề nghị Hội đồng xét xử: Giao cháu Nguyễn Quang K1, sinh ngày 04/01/2008 và Nguyễn Quang K2, sinh ngày 01/4/2014 cho anh Đ nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, hai bên đương sự đều không yêu cầu Tòa án giải quyết; nên không xem xét giải quyết.

4. Về tài sản, công nợ: Đều không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xem xét giải quyết.

5. Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Chị K phải chịu 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Anh Đ là bị đơn vắng mặt tại phiên tòa, nhưng đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định của pháp luật.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị K tự nguyện kết hôn với anh Đ năm 2007, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, K. Đánh giá chung vợ chồng sống hạnh phúc được khoảng 13 năm. Song trong thời gian sống chung mâu thuẫn phát sinh từ đầu năm 2021 do phong cách sống không còn phù hợp, vợ chồng không thống nhất trong quản lý chi tiêu kinh tế gia đình; chị K chung sống với gia đình chồng không hòa hợp; khi vợ chồng xảy ra đánh cãi nhau anh Đ tức giận có ghen tuông vô cớ đối với chị K. Mặc dù đã được gia đình, thôn xóm hòa giải nhiều lần để vợ chồng sống Đ tụ nhưng không thành. Nay chị K xin ly hôn, còn anh Đ xin Đ tụ. Nhưng qua điều tra xác minh theo yêu cầu của đương sự tại địa phương cho biết: Mâu thuẫn vợ chồng xảy ra từ đầu năm 2021 đến nay ngày càng trầm trọng, tình cảm không còn, cuộc sống chung không thể kéo dài. Vợ chồng sống ly thân từ tháng 5 năm 2021 đến nay, không ai quan tâm đến cuộc sống chung. Do đó yêu cầu xin ly hôn của chị K là có cơ sở chấp nhận; Nên xử cho chị K được ly hôn anh Đ là phù hợp.

[3] Về con chung: Anh chị có 02 con chung là Nguyễn Quang K1, sinh ngày 04/01/2008 và Nguyễn Quang K2, sinh ngày 01/4/2014, hiện đang do hai anh chị nuôi dưỡng, nay anh chị đều thống nhất giao cả 02 cháu cho anh Đ nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi và cháu K1, cháu K2 đều có nguyện vọng được ở với anh Đ, cần chấp nhận. Cần giao cháu K1 và cháu K2 cho anh Đ tiếp tục nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi là phù hợp. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, hai bên đương sự đều không yêu cầu Tòa án giải quyết; nên không xem xét giải quyết, tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con của chị K.

[4] Về tài sản, công nợ: Đều không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Chị K phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo luật định

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; 82; 83 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ vào khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, 1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị K được ly hôn anh Nguyễn Quang Đ.

2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Quang K1, sinh ngày 04/01/2008 và Nguyễn Quang K2, sinh ngày 01/4/2014 cho anh Đ nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật; tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con của chị K.

Sau khi ly hôn, chị K có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản, công nợ: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về án phí: Chị K phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0009150 ngày 21 tháng 6 năm 2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện K. Chị K đã chịu đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Chị K có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Anh Đ có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trong trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

201
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 55/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:55/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kiến Thuỵ - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về