TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG TRÔM, TỈNH BẾN TRE
BẢN ÁN 09/2021/HNGĐ-ST NGÀY 27/01/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 27 tháng 01 năm 2021, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 355/2020/TLST– HNGĐ ngày 07 tháng 10 năm 2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 12 tháng 01 năm 2021, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Lê Thị Hồng T, sinh năm: 1996.
Địa chỉ: Số 321/TT, ấp T, xã H, huyện L, tỉnh Đ.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chị T:
Bà Hồ Thị Xuân H – Luật sư Văn phòng Luật sư Xuân Hương, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Đ.
Bà Đặng Thị Bích P – Luật sư Văn phòng Luật sư Xuân Hương, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Đ.
2. Bị đơn: Anh Trần Quan Kim T, sinh năm: 1995.
ĐKTT: Số 69/15, khóm 4, phường 1, thành phố S, tỉnh Đ.
Hiện đang chấp hành án tại Trại giam Châu Bình (ấp 4, xã Châu Bình, huyện G, tỉnh B).
Tại phiên tòa sơ thẩm, chị T, bà Hương, bà Phượng có mặt, anh T vắng mặt (anh T có yêu cầu giải quyết, xét xử vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện ngày 06/10/2020 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn là chị Lê Thị Hồng T trình bày:
Chị và bị đơn là anh Trần Quan Kim T chung sống với nhau có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường 1, thành phố S, tỉnh Đ vào ngày 06/10/2016. Thời gian đầu, vợ chồng cùng chung sống với nhau hạnh phúc và có một con chung. Sau đó vợ chồng thường xảy ra mâu thuẫn nguyên nhân do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, tính tình không phù hợp. Anh T có hành vi bạo lực đối với chị, không chăm lo cho cuộc sống gia đình, tụ tập bạn bè tham gia tệ nạn xã hội dẫn đến vi phạm pháp luật. Đến năm 2019, anh T bị bắt và phải chấp hành án phạt tù tại Trại giam Châu Bình, vợ chồng cũng đã sống ly thân với nhau từ đó cho đến nay. Do tình cảm vợ chồng không còn nữa nên chị có yêu cầu ly hôn với anh T.
Về con chung: Trong quá trình chung sống chị và anh T có 01 con chung tên Trần Quan Kim Đạt, sinh ngày 10/02/2016, hiện do chị đang trực tiếp nuôi dưỡng. Chị có yêu cầu sau khi vợ chồng ly hôn, chị là người tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng con chung, chị không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung và nợ chung: không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bà Đặng Thị Bích P trình bày:
Về hôn nhân: Chị T và anh T tự nguyện tìm hiểu, quen biết có đăng ký kết hôn nên hôn nhân giữa anh chị là hợp pháp. Trong quá trình chung sống thì vợ chồng xảy ra mâu thuẫn nguyên nhân do anh T không chăm lo cho gia đình, tham gia tệ nạn xã hội dẫn đến vợ chồng hay cự cãi. Hôn nhân giữa hai anh chị có được gia đình hàn gắn nhưng không có kết quả, anh T vẫn không thay đổi. Cụ thể hiện tại anh T phải chấp hành án phạt tù tại Trại giam Châu Bình. Như vậy, hôn nhân giữa chị T và anh T đã trầm trọng, không thể hàn gắn nên căn cứ điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, đề nghị Hội đồng xét xử: chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị T đối với anh T.
Về con chung: Chị T và anh T có 01 con chung tên Trần Quan Kim Đạt, sinh ngày 10/02/2016. Từ khi chị T và anh T sống ly thân thì chị T là người trực tiếp nuôi dưỡng con chung, chị vẫn đảm bảo cho cháu phát triển về mọi mặt nên đề nghị: chấp nhận yêu cầu xin được trực tiếp nuôi con của chị T.
Tài sản chung, nợ chung: không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Từ những phân tích trên, căn cứ vào các điều 51, 56, 81, 82 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị T.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bà Hồ Thị Xuân H trình bày:
Chị T xin ly hôn với anh T do trong cuộc sống của anh chị có nhiều mâu thuẫn, mục đích hôn nhân không đạt được. Trong buổi hòa giải thì anh T có ý kiến là không đồng ý ly hôn, anh T muốn hàn gắn gia đình, cùng chị T lo cho con chung. Tuy nhiên, anh T vi phạm pháp luật và phải chấp hành án phạt tù, anh T phải chấp hành án liên quan đến tội phạm về ma túy, bản thân anh T nghiện ma túy do lệch lạc nhân cách, lười lao động. Như vậy, một đứa trẻ sống trong môi trường không tốt sẽ bị ảnh hưởng, không phát triển toàn diện về nhân cách. Việc bảo vệ quyền lợi của trẻ em phải được coi trọng nên cần cho trẻ sống trong một môi trường giáo dục tốt. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị T.
Tại bản tự khai, biên bản hòa giải, bị đơn anh Trần Quan Kim T trình bày:
Anh và chị T sống chung vào năm 2013 đến năm 2016 có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường 1, thành phố Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp. Trong quá trình chung sống đến năm 2018 thì anh có sử dung ma túy nên từ đó vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, chị T có khuyên can nhưng không có kết quả. Đến năm 2019 thì anh bị bắt và phải chấp hành án phạt tù nên vợ chồng cũng đã ly thân từ đó đến nay. Hiện tại, anh còn thương vợ, thương con, muốn giữ hạnh phúc gia đình nên theo yêu cầu xin ly hôn của chị T anh không đồng ý.
Về con chung: Anh và chị T có 01 con chung như chị T trình bày. Nếu phải ly hôn thì anh đồng ý giao con chung là cháu Trần Quan Kim Đạt cho vợ anh trực tiếp nuôi dưỡng, anh không phải cấp dưỡng nuôi con.
Tài sản chung và nợ chung: không có.
Anh T có yêu cầu xét xử vắng mặt vì anh đang phải chấp hành án phạt tù nên không thể tham gia giải quyết vụ án xin ly hôn được.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Giồng Trôm phát biểu:
1. Về tố tụng:
Trong thời gian chuẩn bị xét xử, Thẩm phán thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử, Thư ký thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án.
Nguyên đơn; bị đơn; người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
2. Về nội dung:
Căn cứ các điều 56, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị T.
Về hôn nhân: Chị Lê Thị Hồng T được ly hôn với anh Trần Quan Kim T.
Về con chung: Chị T được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Trần Quan Kim Đạt, sinh ngày 10/02/2016.
Ghi nhận chị T không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung và nợ chung: Chị T, anh T khai không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Anh Trần Quan Kim T vắng mặt tại phiên tòa nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt. Theo quy định tại khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt anh T.
[2] Về NỘI DUNG VỤ ÁN
[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị T và anh T chung sống có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường 1, thành phố Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp vào ngày 06/10/2016 nên quan hệ hôn nhân của anh chị được coi là hợp pháp, được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Chị T và anh T thừa nhận trong quá trình chung sống, anh chị sống có hạnh phúc được thời gian đầu, sau đó thì xảy ra mâu thuẫn, vợ chồng thường xuyên cải vã với nhau nguyên nhân do bất đồng quan điểm trong cuộc sống. Anh chị đã sống ly thân từ khi anh T bị bắt và phải chấp hành án phạt tù cho đến nay.
Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình quy định: “1. Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình”.
Hội đồng xét xử xét thấy, thời điểm chị T và anh T còn chung sống thì giữa hai anh chị đã xảy ra những mâu thuẫn. Tuy nhiên, cả chị T và anh T không có biện pháp để hàn gắn tình cảm vợ chồng, hôn nhân không hạnh phúc. Mặc khác, hiện tại chị T và anh T đã sống ly thân với nhau, từ khi vợ chồng sống ly thân, anh chị không còn quan tâm chăm sóc nhau như vợ chồng. Điều này chứng tỏ, tình trạng hôn nhân của chị T và anh T đã trầm trọng, đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do đó, việc xin ly hôn của chị T là có căn cứ và phù hợp với Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
Đối với yêu cầu xin đoàn tụ của anh T, Hội đồng xét xử xét thấy: Chị T cho rằng chị đã cho anh T nhiều cơ hội sửa đổi để hàn gắn gia đình nhưng anh T vẫn không thay đổi, nhiều lần vi phạm pháp luật. Thật sự hiện nay, chị T và anh T không còn sống chung và chăm sóc, lo lắng với nhau như vợ chồng. Tòa án đã động viên chị T hàn gắn với anh T vì anh T không đồng ý ly hôn nhưng chị T vẫn kiên quyết xin ly hôn. Anh T cũng không có căn cứ chứng minh về việc đoàn tụ, hàn gắn được với chị T. Do đó, không chấp nhận yêu cầu đoàn tụ của anh T.
[2.2] Về con chung: Trong quá trình chung sống chị T và anh T có 01 con chung tên Trần Quan Kim Đạt, sinh ngày 10/02/2016 hiện do chị T đang trực tiếp nuôi dưỡng.
Hội đồng xét xử xét thấy: từ khi chị T và anh T sống ly thân cho đến nay chị T là người trực tiếp nuôi dưỡng con chung, vẫn đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết nên giao con chung cho chị T tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp, để cháu được ổn định tâm lý và việc học hành; anh T cũng có ý kiến nếu ly hôn anh đồng ý giao con chung cho chị T tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng. Mặt khác, xét thấy hiện tại anh T cũng không thể trực tiếp nuôi con chung chưa thành niên được vì anh T phải chấp hành án phạt tù. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị T, giao con chung chưa thành niên cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng.
Đối với việc cấp dưỡng nuôi con, theo quy định tại Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình thì người không trực tiếp nuôi con phải cấp dưỡng nuôi con. Tuy nhiên, chị T không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con, xét thấy đây là sự tự nguyện của chị T, không trái với quy định pháp luật nên ghi nhận.
[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Chị T và anh T khai không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
[2.4] Về án phí: Chị T phải chịu án phí Hôn nhân và gia đình là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng.
Xét lời trình bày của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Giồng Trôm phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 56, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:
Tuyên xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị Hồng T. Chị Lê Thị Hồng T được ly hôn với anh Trần Quan Kim T.
2. Về con chung: Ghi nhận chị Lê Thị Hồng T và anh Trần Quan Kim T có 01 con chung là: Trần Quan Kim Đạt, sinh ngày 10 tháng 02 năm 2016.
Giao con chung là cháu Kim Đạt cho chị T được tiếp tục trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.
Ghi nhận việc chị T không yêu cầu anh T cấp dưỡng cho con.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
Vì lợi ích của con, một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu Tòa án quyết định việc cấp dưỡng cho con.
Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.
3. Về tài sản chung và nợ chung: Ghi nhận việc chị T và anh T khai anh chị không có tài sản chung, nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
4. Về án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm:
Chị Lê Thị Hồng T phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị T đã nộp là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng theo biên lai thu số 0002578 ngày 06 tháng 10 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre; chị T đã nộp đủ án phí.
Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án này để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử phúc thẩm. Đối với bị đơn vắng mặt tại tòa thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án 09/2021/HNGĐ-ST ngày 27/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 09/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Giồng Trôm - Bến Tre |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 27/01/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về