Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 51/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 51/2021/HNGĐ-ST NGÀY 19/08/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 19 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện K xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 100/2021/TLST-HNGĐ, ngày 04 tháng 6 năm 2021 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 45/2021/QĐXX-ST ngày 28 tháng 7 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 27/2021/QĐST-HNGĐ ngày 13 tháng 8 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị M, sinh năm 1989; địa chỉ cư trú: Thôn Đ, xã N, huyện K, thành phố Hải Phòng; Có mặt tại phiên tòa.

- Bị đơn: Anh Vũ Duy H, sinh năm 1984; địa chỉ cư trú: Thôn Đ, xã N, huyện K, thành phố Hải Phòng; Vắng mặt nhưng đã được triệu tập hợp lệ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn ngày 31/5/2021 và các bản tự khai ngày 10/6/2021, ngày 28/6/2021 chị M trình bày: Chị tự nguyện kết hôn với anh Vũ Duy H thời gian năm 2007, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã N, huyện K. Nói chung vợ chồng sống hạnh phúc được khoảng 11 năm. Tuy nhiên trong quá trình sống chung mâu thuẫn vợ chồng phát sinh từ đầu năm 2018 do phong cách sống không còn phù hợp, anh H thường xuyên chơi bời rượu chè cờ bạc, vợ chồng không thống nhất trong làm ăn kinh tế, nghi ngờ nhau sống không chung thủy. Vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi mắng nhau. Mặc dù đã được gia đình, thôn xóm nhiều lần khuyên bảo để vợ chồng trở lại sống đoàn tụ nhưng không thành. Chị bỏ về mẹ đẻ ở nhiều lần, lần sau cùng từ tháng 5 năm 2021 đến nay, không ai quan tâm đến cuộc sống chung. Do tình trạng hôn nhân ngày càng trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, chị xin ly hôn anh H.

Về con chung: Có 02 con là Vũ Duy Thành T, sinh ngày 09/11/2008 và Vũ Thị Như Q, sinh ngày 03/11/2013, hiện đang do anh H nuôi dưỡng. Chị nhất trí để anh H tiếp tục nuôi dưỡng hai cháu đến khi đủ 18 tuổi, trên cơ sở nguyện vọng của 02 cháu. Hiện nay anh H làm nghề thợ điện nước tại địa phương, có thu nhập kinh tế và có nơi ăn ở ổn định, đảm bảo đủ điều kiện để nuôi con. Chị nhận có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng một cháu là 1.000.000đ (một triệu đồng), vì chị làm nghề công nhân, có thu nhập ổn định hàng tháng là 8.000.000đ (tám triệu đồng).

Về tài sản, công nợ: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Anh H vắng mặt, nhưng theo lời trình bày và yêu cầu của chị M; Tòa án đã xác minh và tống đạt trực tiếp giấy triệu tập; thông báo thụ lý vụ án; thông báo về việc thu thập được tài liệu, chứng cứ; thông báo về phiên họp và hòa giải; thông báo kết quả phiên họp của Tòa án cho trưởng thôn Đ và chính quyền địa phương để giao lại các văn bản tố tụng trên. Anh H đã nhận đầy đủ các văn bản tố tụng trên nhưng không đến Tòa án và Ủy ban nhân dân xã N để trình bày lời khai; tham gia phiên họp và hòa giải; từ chối khai báo, vắng mặt không có lý do chính đáng. Sau đó Tòa án đã tống đạt trực tiếp và hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa cho trưởng thôn Đ và Ủy ban nhân dân xã N để giao lại cho anh H. Anh H vẫn vắng mặt tại phiên tòa.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện K phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án:

Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án.

Nguyên đơn chấp hành đầy đủ các quy định của pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án.

Bị đơn không chấp hành đầy đủ nghĩa vụ quy định tại khoản 15, 16 Điều 70, khoản 1 Điều 72 Bộ luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án.

Về việc giải quyết vụ án:

Căn cứ hồ sơ vụ án, các tài liệu, chứng cứ đã được Hội đồng xét xử xem xét công khai và kết quả tranh tụng tại phiên tòa xét thấy:

1. Về tố tụng: Anh H là bị đơn vắng mặt tại phiên tòa, nhưng đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; đề nghị Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định của pháp luật.

2. Về quan hệ hôn nhân: Chị M và anh H tự nguyện kết hôn năm 2007, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã N, huyện K. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến đầu năm 2021 thì phát sinh mâu thuẫn đến nay ngày càng trầm trọng, tình cảm không còn, cuộc sống chung không thể kéo dài. Chị M bỏ về mẹ đẻ ở nhiều lần, lần sau cùng từ tháng 5 năm 2021 đến nay, không ai quan tâm đến cuộc sống chung. Nay chị M xin ly hôn anh H là có cơ sở chấp nhận, nên xử cho chị M được ly hôn anh H là phù hợp. Căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình; đề nghị Hội đồng xét xử: Xử cho chị Nguyễn Thị M được ly hôn anh Vũ Duy H.

3. Về con chung: Anh chị có 02 con chung Vũ Duy Thành T, sinh ngày 09/11/2008 và Vũ Thị Như Q, sinh ngày 03/11/2013, hiện đang do anh H nuôi dưỡng. Nay chị M đồng ý để anh H tiếp tục nuôi dưỡng cả 02 cháu vì anh H đảm bảo điều kiện nuôi con tốt và cháu T, cháu Q đều có nguyện vọng được ở với anh H, cần chấp nhận. Căn cứ vào Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; đề nghị Hội đồng xét xử: Giao cháu Vũ Duy Thành T, sinh ngày 09/11/2008 và Vũ Thị Như Q, sinh ngày 03/11/2013 cho anh H nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, chị M nhận cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng một cháu là 1.000.000đ (một triệu đồng), cần chấp nhận.

4. Về tài sản, công nợ: Không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xem xét giải quyết.

5. Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5, khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Chị M phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm và 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự về việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con theo định kỳ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Anh H là bị đơn vắng mặt tại phiên tòa, nhưng đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định của pháp luật.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị M tự nguyện kết hôn với anh H năm 2007, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã N, huyện K. Đánh giá chung vợ chồng sống hạnh phúc được khoảng 13 năm. Song trong thời gian sống chung mâu thuẫn phát sinh từ đầu năm 2021 do phong cách sống không còn phù hợp, vợ chồng nghi ngờ nhau sống không chung thủy, không thống nhất trong làm ăn kinh tế nên thường xuyên xảy ra cãi mắng nhau. Mặc dù đã được gia đình, thôn xóm hòa giải nhiều lần để vợ chồng sống đoàn tụ nhưng không thành. Chị M bỏ về nhà mẹ đẻ ở nhiều lần, lần sau cùng từ tháng 5 năm 2021 đến nay, không ai quan tâm đến cuộc sống chung. Nay chị M xin ly hôn anh H là có cơ sở chấp nhận; nên xử cho chị M được ly hôn anh H là phù hợp.

[3] Về con chung: Anh chị có 02 con chung là Vũ Duy Thành T, sinh ngày 09/11/2008 và Vũ Thị Như Q, sinh ngày 03/11/2013, hiện đang do anh H nuôi dưỡng. Nay chị M đồng ý để anh H tiếp tục nuôi dưỡng cả 02 con vì anh H đảm bảo điều kiện để nuôi con tốt, và cháu T, cháu Q đều có nguyện vọng ở với anh H, được chấp nhận. Cần giao cháu Tài và cháu Q cho anh H tiếp tục nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi là phù hợp. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, chị M nhận cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng một cháu là 1.000.000đ (một triệu đồng), cần chấp nhận.

[4] Về tài sản, công nợ: Không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Chị M phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo luật định và án phí dân sự về việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con theo định kỳ.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; 82; 83 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ vào khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào điểm a khoản 5, khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, 1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị M được ly hôn anh Vũ Duy H.

2. Về con chung: Giao cháu Vũ Duy Thành T, sinh ngày 09/11/2008 và Vũ Thị Như Q, sinh ngày 03/11/2013 cho anh H nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Chị M có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng một cháu là 1.000.000đ (một triệu đồng); Thời gian từ tháng 8 năm 2021 hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Sau khi ly hôn, chị M có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của anh H cho đến khi thi hành án xong khoản tiền cấp dưỡng nuôi con thì chị M còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

3. Về tài sản, công nợ: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về án phí: Chị M phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm và phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự về việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con theo định kỳ; nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0009139 ngày 04 tháng 6 năm 2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện K. Chị M còn phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự về việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con theo định kỳ.

Chị M có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Anh H có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trong trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

164
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 51/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:51/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kiến Thuỵ - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về