Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 49/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HUẾ, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

BẢN ÁN 49/2021/HNGĐ-ST NGÀY 20/08/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Trong ngày 20 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố H (số 60 Nguyễn Huệ, thành phố H) xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 614/2020/TLST-HNGĐ ngày 14 tháng 12 năm 2020; về việc: "Ly hôn, tranh chấp nuôi con"; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 40/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 14 tháng 7 năm 2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 142/QĐST-HNGĐ ngày 02 tháng 8 năm 2021; giữa các đương sự:

-Nguyên đơn: Chị Võ Thị K, sinh năm 1995. Nơi ĐKNKTT: 26 Đường N, phường H, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế. Nơi cư trú hiện nay: 06/47 Ưng Bình, phường D, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế - có mặt.

-Bị đơn: Anh Nguyễn Hữu P, sinh năm 1983. Nơi cư trú: 26 Đường N, phường H, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế - vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn và các lời khai tại Tòa án nhân dân thành phố H, nguyên đơn chị Võ Thị K trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Hữu P tự nguyện kết hôn vào năm 2014 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường H, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế (nhưng chung sống với nhau từ năm 2012). Trong quá trình chung sống vợ chồng hạnh phúc được khoảng 7 năm, sau đó thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh P cờ bạc, nợ nần dẫn đến vợ chồng bất đồng quan điểm sống. Hai người đã sống ly thân từ năm 2019 cho đến nay nhưng không có biện pháp hàn gắn tình cảm vợ chồng. Nay chị K nhận thấy cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc nên yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh P.

Về con chung: Trong quá trình chung sống, anh chị có hai con chung, tên Nguyễn Bảo N, sinh ngày 22/10/2012 và Nguyễn Bảo C, sinh ngày 24/10/2014, hiện cả hai cháu đang ở với chị K. Chị K có yêu cầu trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung và không yêu cầu anh P cấp dưỡng tiền nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị K xác nhận quá trình chung sống, vợ chồng chị và anh P không có tài sản chung và không có nợ chung. Nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với bị đơn anh Nguyễn Hữu P, Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng anh P vẫn cố tình vắng mặt không có lý do, nên Tòa án tiến hành đưa vụ án ra xét xử vắng mặt anh P theo thủ tục niêm yết công khai theo quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự. Tại phiên tòa, chị K vẫn giữ yêu cầu khởi kiện của mình là đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận cho chị được ly hôn anh P.

Về kiểm sát việc tuân theo pháp luật, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H có ý kiến:

+ Về tố tụng: Thẩm phán thụ lý vụ án, xác định tư cách pháp lý người tham gia tố tụng, thu thập chứng cứ, chuẩn bị xét xử và quyết định đưa vụ án ra xét xử đều đảm bảo đúng quy định về thời hạn, nội dung, tư cách pháp lý và thẩm quyền theo quy định của Bộ luật dân sự; Hội đồng xét xử và thư ký thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về xét xử sơ thẩm vụ án. Người tham gia tố tụng thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

+ Về quan điểm giải quyết vụ án, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử theo hướng:

-Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Võ Thị K đối với anh Nguyễn Hữu P.

-Về con chung: Chấp nhận yêu cầu của chị K là giao hai cháu Nguyễn Bảo N, sinh ngày 22/10/2012 và Nguyễn Bảo C, sinh ngày 24/10/2014 cho chị K trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục đến tuổi trưởng thành, đủ 18 tuổi.

-Về cấp dưỡng nuôi con chung: Do chị K không yêu cầu, nên không đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.

-Về tài sản chung và nợ chung: Chị K xác nhận vợ chồng không có tài sản chung và nợ chung, nên không đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giải quyết.

-Về án phí: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên buộc chị K phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Chị Võ Thị K khởi kiện yêu cầu ly hôn, tranh chấp nuôi con với anh Nguyễn Hữu P có địa chỉ cư trú tại số 26 Đường N, phường H, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế. Căn cứ vào Khoản 1 Điều 28 và Điều 39 Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế.

Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn anh Nguyễn Hữu P được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần để tham gia hòa giải nhưng anh P cố tình vắng mặt. Tòa án tiến hành thủ tục niêm yết công khai xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại Điều 179 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Đến nay, anh P vẫn vắng mặt lần thứ hai không có lý do nên căn cứ vào Khoản 2, Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015 xét xử vắng mặt anh P.

[2] Về nội dung vụ án:

2.1 Về quan hệ hôn nhân: Chị K và anh P tự nguyện kết hôn vào năm 2012 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường H, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế vào ngày 09/5/2014. Hôn nhân của chị K và anh P là hôn nhân hợp pháp nên được pháp luật thừa nhận.

Trong cuộc sống hôn nhân giữa chị K và anh P thường phát sinh mâu thuẫn, cãi vã nhau. Nguyên nhân là do anh P cờ bạc, nợ nần dẫn đến vợ chồng bất đồng quan điểm sống. Đến năm 2019, hai người đã sống ly thân cho đến nay nhưng không có biện pháp hàn gắn tình cảm vợ chồng. Tại phiên tòa, chị K trình bày từ khi vợ chồng sống ly thân nhau, hai bên không còn liên lạc, mỗi người có một cuộc sống riêng nên không thể hàn gắn, đoàn tụ được nữa nên đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết cho chị được ly hôn anh P để ổn định cuộc sống.

Về phía bị đơn anh Nguyễn Hữu P, trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhiều lần triệu tập hợp lệ nhưng anh P vẫn cố tình vắng mặt. Điều này chứng tỏ anh P không có thiện chí khắc phục đoàn tụ gia đình với chị K.

Từ những lý do trên cho thấy cuộc sống hôn nhân giữa chị Võ Thị K và anh Nguyễn Hữu P mâu thuẫn đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên việc chị K yêu cầu được ly hôn anh P là có cơ sở cần được chấp nhận.

2.2 Về con chung: Trong quá trình chung sống chị K, anh P có hai con chung tên Nguyễn Bảo N, sinh ngày 22/10/2012 và Nguyễn Bảo C, sinh ngày 24/10/2014, hiện cả hai con chung đang sinh sống cùng chị K. Tại phiên tòa, chị K yêu cầu Hội đồng xét xử xem xét cho chị được trực tiếp nuôi con và không yêu cầu anh P cấp dưỡng tiền nuôi con.

Tại bản tự khai của hai cháu Nguyễn Bảo N và Nguyễn Bảo C, ghi nhận nguyện vọng của hai cháu là sau khi ba mẹ ly hôn xin được tiếp tục sống với chị K.

Hội đồng xét xử nhận thấy, hiện nay cả hai cháu Ngọc và Châu đều do chị K chăm sóc, nuôi dưỡng và xem xét nguyện vọng của hai cháu mong muốn được tiếp tục sống cùng mẹ. Do đó Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị K là phù hợp với quy định tại Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Anh P có quyền thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung không ai được quyền ngăn cản.

2.3 Về cấp dưỡng nuôi con: Do chị K không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

2.4 Về tài sản chung, nợ chung: Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa chị K xác nhận quá trình chung sống chị và anh P không có tài sản chung và không có nợ chung. Quá trình giải quyết vụ án anh P vắng mặt, không ai có yêu cầu gì, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về án phí sơ thẩm: Yêu cầu khởi kiện về ly hôn của chị Võ Thị K được Hội đồng xét xử chấp nhận nên chị K phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000đồng.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 179, Điều 227, Điều 228, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điểm a Khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Võ Thị K.

1.Về quan hệ hôn nhân: Chị Võ Thị K được ly hôn anh Nguyễn Hữu P.

2.Về con chung: Giao hai con chung tên Nguyễn Bảo N, sinh ngày 22/10/2012 và Nguyễn Bảo C, sinh ngày 24/10/2014 cho chị Võ Thị K trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục đến tuổi trưởng thành, đủ 18 tuổi. Anh Nguyễn Hữu P không phải cấp dưỡng nuôi con.

Anh Nguyễn Hữu P có quyền thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung, không ai được quyền ngăn cản.

3.Về tài sản chung và nợ chung: Chị K xác nhận quá trình chung sống chị và anh P không có tài sản chung và không có nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xem xét.

4.Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Chị Võ Thị K phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm chị K đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số AA/2016/0000748 ngày 24/11/2020 tại Chi cục thi hành án Dân sự thành phố H.

5.Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị đơn được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

166
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 49/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:49/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Huế - Thừa Thiên Huế
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về