TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN LÃO, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 48/2021/HNGĐ-ST NGÀY 29/07/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 29 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện An Lão, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 69/2021/TLST-HNGĐ, ngày 15 tháng 4 năm 2021 về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 486/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 24 tháng 6 năm 2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 545/2021/QĐST-HNGĐ ngày 12 tháng 7 năm 2021 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị N, trú tại: Thôn P, xã T, huyện A, thành phố Hải Phòng; vắng mặt tại phiên tòa (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).
- Bị đơn: Anh Hoàng Văn C, trú tại: Thôn P, xã T, huyện A, thành phố Hải Phòng; vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đề ngày 08 tháng 4 năm 2021 và các bản tự khai của nguyên đơn chị Nguyễn Thị N trình bày:
Chị N xây dựng hạnh phúc với anh Hoàng Văn C do hai bên tự nguyện và có đăng ký kết hôn ngày 10 tháng 7 năm 2018 tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện A, thành phố Hải Phòng. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại nhà bố mẹ đẻ anh C ở thôn P, xã T, huyện A, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống vợ chồng xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm, cách sống không phù hợp nhau, anh C không tu chí, không quan tâm gia đình, anh chơi bời bài bạc, nợ nần chị phải trả nợ cho anh, anh C còn sử dụng ma túy đá. Chị và gia đình biết khuyên can nhưng anh C không thay đổi cách sống mà còn chửi xúc phạm, đánh chị, cuộc sống vợ chồng không có hạnh phúc. Chị N thuê nhà trọ ở và sống ly thân với anh C từ tháng 02 năm 2021 đến nay, hai bên không còn quan tâm đến nhau. Chị N xét thấy không còn tình cảm với anh C, chị đề nghị tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Hoàng Văn C. Về con chung: Chị N và anh C có 01 con chung là Hoàng Thu H, sinh ngày 28 tháng 6 năm 2018. Ly hôn chị đề nghị được nuôi con và không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung: Chị N không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bị đơn anh Hoàng Văn C đã được tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng anh không đến tòa án để giải quyết việc chị Nguyễn Thị N xin ly hôn và nuôi con nên không có lời khai của anh C.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện An Lão, thành phố Hải Phòng tại phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã đảm bảo đúng quy định của pháp luật. Nguyên đơn chị Nguyễn Thị N vắng mặt tại phiên tòa nhưng chị có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn anh Hoàng Văn C không tuân thủ các điều 70, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về đường lối giải quyết vụ án: Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; Điều 203 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các điều 51, 56, 57, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án. Xử cho chị Nguyễn Thị N được ly hôn anh Hoàng Văn C; về con chung: Giao con Hoàng Thu H, sinh ngày 28 tháng 6 năm 2018 cho chị N nuôi dưỡng đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con cho anh C. Về tài sản chung: Chị N không yêu cầu giải quyết, đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét; về án phí: Chị Nguyễn Thị N phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
- Về tố tụng:
[1] Thẩm quyền giải quyết vụ án: Chị Nguyễn Thị N có đơn khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn, tranh chấp nuôi con đối với anh Hoàng Văn C. Anh C có nơi cư trú tại thôn P, xã T, huyện A, thành phố Hải Phòng. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện An Lão, thành phố Hải Phòng.
[2] Nguyên đơn chị Nguyễn Thị N vắng mặt tại phiên tòa nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn anh Hoàng Văn C vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị Nguyễn Thị N và anh Hoàng Văn C.
- Về nội dung:
[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị N và anh Hoàng Văn C xây dựng hạnh phúc với nhau trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn ngày 10 tháng 7 năm 2018 tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện A, thành phố Hải Phòng được xác định là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn anh chị chung sống cùng với bố mẹ anh C tại thôn P, xã T, huyện A, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống chị N và anh C xảy ra mâu thuẫn nguyên nhân do bất đồng quan điểm, cách sống không phù hợp nhau, anh C không tu chí, quan tâm gia đình, chơi bài bạc nợ nần và sử dụng ma túy đá, vợ chồng nhiều lần cãi vã, xô xát, cuộc sống vợ chồng không có hạnh phúc. Chị N thuê nhà trọ ở riêng từ tháng 02 năm 2021 và sống ly thân với anh C từ đó đến nay, hai bên không còn quan tâm đến nhau. Xét thấy tình trạng mâu thuẫn giữa chị N và anh C đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Chị N xin ly hôn anh C là có căn cứ phù hợp với quy định tại Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[4] Về con chung: Chị N và anh C có 01 con chung là Hoàng Thu H, sinh ngày 28 tháng 6 năm 2018. Ly hôn chị N đề nghị được nuôi con và không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con. Xét hiện nay chị N có công việc, có thu nhập, có nơi ở đảm bảo việc nuôi con. Căn cứ Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử giao cho chị N được nuôi con là phù hợp.
[5] Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị N không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[6] Về án phí: Chị Nguyễn Thị N phải nộp án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228; khoản 4 Điều 147; Điều 235 và Điều 266 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ vào các điều 19, 51, 53, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.
Tuyên xử:
1. Chị Nguyễn Thị N được ly hôn anh Hoàng Văn C.
2. Về con chung: Giao con Hoàng Thu H, sinh ngày 28 tháng 6 năm 2018 cho chị Nguyễn Thị N nuôi dưỡng đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con đối với anh Hoàng Văn C.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị N phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị Nguyễn Thị N đã nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0011737 ngày 15 tháng 4 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Lão, thành phố Hải Phòng. Chị Nguyễn Thị N đã nộp đủ án phí.
Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, Điều 7, Điều 7a và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
4. Về quyền kháng cáo bản án: Chị Nguyễn Thị N và anh Hoàng Văn C có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 48/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 48/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện An Lão - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 29/07/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về