Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 46/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THANH KHÊ - TP ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 46/2022/HNGĐ-ST NGÀY 14/09/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 14 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 163/2022/TLST-HNGĐ ngày 31 tháng 05 năm 2022 về tranh chấp “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 163/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 29/07/2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 163/2022/QĐST-HNGĐ ngày 22/08/2022 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Bà Bùi Lê Thuý Q - Sinh năm: 1994 - Địa chỉ: K85/14 N, phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng. Có mặt.

* Bị đơn: Ông Nguyễn Chí H – Sinh năm: 1990 – Địa chỉ: K260/60 Đ, phường C, quận T, thành phố Đà Nẵng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Nguyên đơn bà Bùi Lê Thuý Q trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Bùi Lê Thuý Q và ông Nguyễn Chí H tự nguyện đăng ký kết hôn tại UBND phường T, quận T, thành phố Đà Nẵng theo số 37 ngày 26/4/2019. Sau khi kết hôn thì vợ chồng chung sống với nhau tại nhà ba mẹ của bà Q tại 172/54 T, phường T, quận T, thành phố Đà Nẵng.

Ngay sau khi chung sống vợ chồng đã phát sinh mâu thuẫn vì ông H thường xuyên tụ tập nhậu nhẹt, đi chơi đêm với bạn bè và thường về nhà rất khuya. Bà đã nhiều lần khuyên nhũ nhưng ông H đều bỏ ngoài tai và thậm chí còn đánh đập, mắng chửi. Việc ông H bạo lực gia đình, có hành vi đánh đập đều có sự chứng kiến của ba mẹ bà, hàng xóm láng giềng và có 02 lần phải nhờ sự can thiệp của công an phường T đến giải quyết. Sự việc này cứ tiếp diễn khiến cho bà cùng với ba mẹ của mình trong suốt thời gian dài phải chịu đựng làm ảnh hưởng đến sức khoẻ tinh thần và bà không muốn sau này tác động đến tâm lý của con trai, nên ba mẹ bà đã quyết định bán nhà đất tại 172/54 T, phường T, quận T, thành phố Đà Nẵng để dọn đi nơi khác sinh sống tách khỏi ông Nguyễn Chí H. Sau khi bán nhà đất tại 172/54 đường T vào giữa năm 2021, thì gia đình dọn về sống tại 85/14 đường T, phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng còn ông Nguyễn Chí H dọn về sinh sống tại nhà ba mẹ ruột ông H có địa chỉ 260/60 đường Đ, quận T, thành phố Đà Nẵng. Vợ chồng đã ly thân hơn nửa năm nay nhưng khi ông H biết được địa chỉ nơi ở mới của bà và ba mẹ bà thì ông đã đến quậy phá, chửi bới gia đình khiến bà và gia đình hết sức mệt mỏi.

Đến nay, mâu thuẫn vợ chồng đã thực sự trầm trọng, không ai còn tình cảm, trách nhiệm gì với nhau nữa nên không thể hàn gắn để tiếp tục cùng nhau chung sống. Do vậy, bà Q yêu cầu Toà án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Nguyễn Chí H.

- Về quan hệ con chung: Bà xác định bà và ông H có 01 con chung tên Nguyễn Văn Chí T, sinh ngày 21/10/2019.

Ly hôn bà Q có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung là cháu Nguyễn Văn Chí T đến khi con đủ 18 tuổi và không yêu cầu ông H phải chịu nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản chung, tự thoả thuận không yêu cầu Toà án giải quyết.

- Về nợ chung, tự thoả thuận không yêu cầu Toà án giải quyết.

Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng đã tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập và thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cho ông Nguyễn Chí H nhưng ông H không có văn bản phản hồi cũng như vắng mặt không có lý do phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nên Tòa án không thể tiến hành hòa giải cho các bên đương sự được.

Tại phiên tòa lần thứ hai ông Nguyễn Chí H vắng mặt không có lý do.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng phát biểu:

* Về tố tụng: Việc tuân thủ pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án và những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tòa án đã thụ lý vụ án, xác định đúng tư cách tham gia tố tụng của đương sự, xác minh, thu thập chứng cứ đúng quy định của pháp luật.

* Về nội dung vụ án: Đề nghị HĐXX chấp nhận cho nguyên đơn được ly hôn với bị đơn; giao con chung tên là Nguyễn Văn Chí T, sinh ngày 21/10/2019 cho bà Bùi Lê Thúy Q trực tiếp nuôi dưỡng cho đến tuổi thành niên, bà Q không yêu cầu ông H phải cấp dưỡng nuôi con nên không đề cập đến.

Về tài sản chung nguyên đơn không yêu cầu Tòa án giải quyết; về nợ chung nguyên đơn xác định không có, nên không đề cập giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

A. Về tố tụng:

[1] Nguyên đơn bà Bùi Lê Thuý Q khởi kiện “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” đối với bị đơn là ông Nguyễn Chí H có địa chỉ cư trú tại 260/60 Điện Biên Phủ, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Thanh Khê theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a, khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng đã tống đạt hợp lệ giấy triệu tập, quyết định đưa vụ án ra xét xử và quyết định hoãn phiên tòa cho ông Nguyễn Chí H. Tại phiên tòa lần thứ hai ông H vắng mặt không có lý do nên Tòa án căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt ông Nguyễn Chí H.

B. Về nội dung vụ án:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Bà Bùi Lê Thuý Q và ông Nguyễn Chí H tự nguyện kết hôn với nhau vào năm 2019 có đăng ký kết hôn tại UBND phường Tam Thuận, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng, như vậy bà Q và ông H đã tuân thủ đầy đủ các quy định về kết hôn của Luật hôn nhân và gia đình nên hôn nhân của ông bà là hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ. Nay bà Q xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt nên yêu cầu được ly hôn với ông H.

Xét yêu cầu của nguyên đơn thì thấy: Tại Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình quy định: “…Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình. Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau…”. Theo đó, việc sống chung với nhau vừa là quyền, cũng là nghĩa vụ giữa vợ chồng, hiện nay bà Q và ông H đã sống ly thân, việc ai người đó làm, không quan tâm gì đến nhau. Trong quá trình giải quyết, Tòa án đã tổ chức hòa giải tạo điều kiện để vợ chồng ông bà trở về đoàn tụ, nhưng ông H đều vắng mặt không có lý do chứng tỏ ông H không thiết tha muốn hàn gắn mâu thuẫn vợ chồng, về phía bà Q cương quyết đề nghị Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông H vì mâu thuẫn của ông bà đã trầm trọng không thể hàn gắn được, mặt khác qua xác minh tại địa phương được biết bà Q không còn chung sống cùng ông H cho đến nay. Do đó, nguyện vọng xin được ly hôn của bà Bùi Lê Thuý Q là chính đáng và có căn cứ, phù hợp với quy định tại Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[2] Về quan hệ con chung và cấp dưỡng nuôi con chung: Ly hôn bà Q có nguyện vọng trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Nguyễn Văn Chí T, sinh ngày 21/10/2019 cho đến tuổi thành niên và không yêu cầu ông H phải cấp dưỡng.

Xét yêu cầu của nguyên đơn thì thấy: Việc giao con cho ai nuôi dưỡng phải căn cứ vào điều kiện kinh tế của mỗi bên cũng như xem xét tới quyền lợi mọi mặt của con chung. Hiện con chung là Nguyễn Văn Chí T đang sống chung với bà Q, được bà Q trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.

Do vậy, để không làm xáo trộn cuộc sống của con chung, HĐXX xét thấy việc giao con chung Nguyễn Văn Chí T, sinh ngày 21/10/2019 cho bà Q trực tiếp nuôi dưỡng là có căn cứ, phù hợp với quy định tại Điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình.

Về cấp dưỡng nuôi con chung bà Bùi Lê Thúy Q không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đề cập đến.

[3] Về quan hệ tài sản chung: Bà Bùi Lê Thuý Q không yêu cầu giải quyết nên không đề cập đến.

[4] Về nợ chung: Bà Bùi Lê Thuý Q xác định bà và ông Nguyễn Chí H không có nợ chung nên không xem xét đến.

[5] Tại phiên tòa Kiểm sát viên đề nghị HĐXX xem xét cho bà Q được ly hôn với ông H, về quan hệ con chung giao con chung tên Nguyễn Văn Chí T, sinh ngày 21/10/2019 cho bà Bùi Lê Thúy Q trực tiếp nuôi dưỡng cho đến tuổi thành niên, bà Q không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con, về tài sản chung và nợ chung không đề cập giải quyết, lời đề nghị của Kiểm sát viên phù hợp như nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[6] Về án phí: Theo quy định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, nguyên đơn phải chịu án phí HNGĐ-ST là 300.000 đồng bà Bùi Lê Thuý Q phải chịu.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147 và điểm a khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình.

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho bà Bùi Lê Thuý Q được ly hôn với ông Nguyễn Chí H.

2. Về quan hệ con chung: Giao con chung tên Nguyễn Văn Chí T, sinh ngày 21/10/2019 cho bà Bùi Lê Thúy Q trực tiếp nuôi dưỡng cho đến tuổi thành niên. Ông Nguyễn Chí H không phải cấp dưỡng nuôi con.

Các bên vẫn có đầy đủ quyền và nghĩa vụ đối với con chung theo quy định của pháp luật.

3. Về quan hệ tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết.

4. Về nợ chung: Không có

5. Án phí HNGĐ-ST: 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) bà Bùi Lê Thuý Q phải chịu nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0002763 ngày 30/05/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng. Bà Q đã nộp đủ án phí HNGĐ sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo: Bà Bùi Lê Thuý Q được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; ông Nguyễn Chí H được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại địa phương.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

92
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 46/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:46/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thanh Khê - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về