Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 46/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TRẢNG BÀNG, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 46/2022/HNGĐ-ST NGÀY 29/06/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 29 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 43/2022/TLST-HNGĐ ngày 25 tháng 3 năm 2022 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 43/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 13 tháng 6 năm 2022; giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: chị Võ Thị M, sinh năm 1986 - Có mặt;

Địa chỉ: Ấp PH, xã PC, thị xã Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh.

- Bị đơn: anh Nguyễn Văn A, sinh năm 1984 - Xin vắng mặt. Địa chỉ: Ấp PH, xã PC, thị xã Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn chị Võ Thị M trình bày:

Chị và anh A sống với nhau vào năm 2004, có tổ chức lễ cưới, có đăng ký kết hôn tại UBND xã PC. Sau khi cưới, chị về sống chung anh A tại ấp PH, xã PC, thị xã Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh. Vợ chồng chung sống hạnh phúc vài năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn là do anh A ham chơi cờ bạc, đá gà, bên cạnh đó anh A còn thường xuyên uống rượu về đánh chị.

Chị và anh A đã ly thân từ tháng 02 năm 2022. Nay chị yêu cầu được ly hôn anh A.

Về con chung: Vợ chồng có 01 người con chung tên Nguyễn Thị Huỳnh N, sinh ngày 16-01-2005. Chị có nguyện vọng tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Nguyễn Thị Huỳnh N, không yêu cầu anh Nguyễn Văn A cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết.

Về nợ chung: Không có, không yêu cầu giải quyết.

Theo các lời khai và trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn anh Nguyễn Văn A trình bày (Theo biên bản lấy lời khai ngày 05-04-2022):

Anh A trình bày thống nhất với chị M về thời gian chung sống, đăng ký kết hôn. Về nguyên nhân mâu thuẫn theo anh A là do anh có nhậu say về đánh vợ, nhưng anh đã nhiều lần năn nĩ vợ và gia đình vợ, anh và chị M ly thân từ tháng 02 năm 2022 đến nay, Nguyện vọng anh muốn đoàn tụ với chị Võ Thị M.

Về con chung: Cháu Nguyễn Thị Huỳnh N, sinh ngày 16-01-2005. Nếu Tòa án giải quyết cho anh và chị M ly hôn thì anh A đồng ý để chị M tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Nguyễn Thị Huỳnh N.

Về tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết.

Về nợ chung: Không có, không yêu cầu giải quyết.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh:

- Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa, người tham gia tố tụng thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

- Về quan điểm giải quyết vụ án:

Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015; Điều 56, 81, 82 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 xem xét, quyết định:

Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu về việc ly hôn của chị Võ Thị M đối với anh Nguyễn Văn A, cho chị M được ly hôn anh A.

Về con chung: Giao cháu Nguyễn Thị Huỳnh N, sinh ngày 16-01-2005, cho chị Võ Thị M tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục.

Ghi nhận chị M không yêu cầu anh A cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung: không đặt ra giải quyết.

Về nợ chung: không đặt ra giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, xét thấy:

[1] Về tố tụng: Anh Nguyễn Văn A vắng mặt tại phiên tòa nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị M và anh A chung sống với nhau vào năm 2004 có đăng ký kết hôn tại UBND xã PC. Do đó, hôn nhân của chị M và anh A là hợp pháp. Vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn và tự sống ly thân từ tháng 02 năm 2022 đến nay. Nay chị M yêu cầu ly hôn anh A nhưng anh A không đồng ý ly hôn với chị M. Xét lời trình bày của chị M cho rằng anh A ham chơi cờ bạc gây nợ nên chị phải trả nợ cho anh nhiều lần. Chị khuyên can nhiều lần nhưng anh A không thay đổi. Ngược lại, anh A trình bày nhậu về có đánh vợ, ngoài ra vợ chồng không mâu thuẫn gì. Qua đó, cho thấy chị M và anh A đã mất lòng tin với nhau về tình cảm.

Kết quả xác minh tại địa phương thể hiện: chị M và anh A thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Mặt khác, anh A trình bày anh không đồng ý ly hôn nhưng anh không đưa ra được giải pháp để vợ chồng chung sống lại với nhau. Do đó, có căn cứ xác định hôn nhân của chị M và anh A lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy, có cơ sở chấp nhận yêu cầu của chị M yêu cầu ly hôn anh A theo quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014

[3] Về con chung: Cháu Nguyễn Thị Huỳnh N, sinh ngày 16-01-2005 hiện tại đang sống cùng chị M. Tòa án đã tiến hành hỏi ý kiến cháu Nguyễn Thị Huỳnh N, cháu Như có nguyện vọng được theo sống cùng với chị M. Bên cạnh đó anh A cũng đồng ý giao cháu Như cho chị M nuôi dưỡng. Do đó, Hội đồng xét xử giao cháu Nguyễn Thị Huỳnh N cho chị M được quyền tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình. Ghi nhận chị M không yêu cầu anh A cấp dưỡng nuôi con.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu giải quyết nên không đặt ra giải quyết.

[5] Như phân tích trên thì đề nghị của Viện kiểm sát về quan điểm giải quyết vụ án là có cơ sở chấp nhận.

[6] Án phí: Chị M phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Võ Thị M đối với anh Nguyễn Văn A.

Chị Võ Thị M được ly hôn anh Nguyễn Văn A.

2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Thị Huỳnh N, sinh ngày 16-01-2005 cho chị Võ Thị M được quyền tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục.

- Ghi nhận chị M không yêu cầu anh A cấp dưỡng nuôi con.

- Anh Nguyễn Văn A có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu giải quyết nên không đặt ra giải quyết.

4. Án phí: Chị Võ Thị M phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0026515 ngày 25 tháng 03 năm 2022 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh; chị M đã nộp đủ án phí.

5. Báo cho chị M biết có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Anh A vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

109
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 46/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:46/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Trảng Bàng - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về