Bản án vê ly hôn, tranh chấp nuôi con số 42/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN EA KAR, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 42/2022/HNGĐ-ST NGÀY 27/09/2022 VÊ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 27 tháng 9 năm 2022, tại phòng xử án Tòa án nhân dân huyện Ea Kar xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 261/2022/TLST- HNGĐ ngày 01 tháng 6 năm 2022 về việc "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 42/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 19 tháng 8 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 28/2022/QĐST-HNGĐ ngày 08/9/2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Bùi Thị H, sinh năm 1983. Nơi cư trú: Thôn 9, thị trấn EK, huyện EK, tỉnh Đắk Lắk: (có mặt).

- Bị đơn: Ông Dương Văn M, sinh năm 1983 (vắng mặt lần 02 không có lý do).

Nơi ĐKHKTT: Thôn S, xã C, huyện EK, tỉnh Đắk Lắk. Nơi cư trú: Thôn 1B, xã N, huyện EK, tỉnh Đắk Lắk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

-Tại đơn khởi kiện ghi ngày 23/5/2022 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa nguyên đơn bà Bùi Thị H trình bày:

Về hôn nhân: Tôi (H) và ông Dương Văn M sau một thời gian tìm hiểu thì có nguyện vọng chung sống, kết hôn với nhau và có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân thị trấn EK, huyện EK, được cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 12/02/2019, trên cơ sở tự nguyện và có tổ chức đám cưới theo phong tục tập quán. Vợ chồng tôi chung sống hạnh P đến tháng 01 năm 2021 thì phát sinh mâu thuẫn và kéo dài. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính cách, quan điểm sống không hòa hợp, vợ chồng không có sự tin tưởng và thông cảm cho nhau, ông M không quan tâm đến gia đình và hay uống rượu say về đánh đập tôi nhiều lần nên thường xuyên xảy ra cãi nhau, không tôn trọng nhau. Đến tháng 5 năm 2021 thì chúng tôi ly thân cho đến nay. Xét thấy cuộc sống hôn nhân không hạnh P, chúng tôi không còn tình cảm với nhau nên tôi yêu cầu xin ly hôn với ông Dương Văn M.

Về con chung: Trong quá trình chung sống, vợ chồng tôi có 01 con chung Dương Hoàng P, sinh ngày 01/02/2019. Hiện nay, tôi đang làm nhân viên bán hàng của Viettel, thu nhập hàng tháng trung bình 10.000.000đ/tháng, thu nhập ổn định, trong khi ông M làm nghề thợ xây thường xuyên không có mặt ở nhà và thu nhập không ổn định. Ngoài ra, sau khi ly thân thì con chung P do tôi nuôi dưỡng, ông M không đến thăm con, không quan tâm và chăm sóc cho con chung. Do đó, tôi có nguyện vọng được trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục con chung P đến khi đủ 18 tuổi.

Về cấp dưỡng phí tổn nuôi con chung: Tôi không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung và nợ chung: Tôi không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành giao thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhiều lần. Các thủ tục tố tụng được giao hợp lệ cho bị đơn ông Dương Văn M nhưng đương sự đều cố tình vắng mặt. Vì vậy, Tòa án nhân dân huyện Ea Kar quyết định đưa vụ án ra xét xử.

Tại phiên tòa, đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Ea Kar phát biểu ý kiến và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân gia đình: Về hôn nhân: chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, xử cho bà Bùi Thị H được ly hôn với ông Dương Văn M; Về con chung: giao con chung là Dương Hoàng P, sinh ngày 01/02/2019 cho bà Bùi Thị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục đến khi con chung đủ 18 tuổi. Về cấp dưỡng phí tổn nuôi con chung: đương sự không yêu cầu nên không đặt ra để giải quyết; về tài sản chung và nợ chung: đương sự không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thảo luận đánh giá tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bà Bùi Thị H khởi kiện yêu cầu xin ly hôn với ông Dương Văn M. Đây là quan hệ tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng Dân sự. Toà án quyết định đưa vụ án ra xét xử, bị đơn ông Dương Văn M được Toà án triệu tập tham gia phiên toà hợp lệ đến lần 2, nhưng đều vắng mặt không lý do. Như vậy, đương sự đã tự từ bỏ quyền và nghĩa vụ chứng minh trước toà. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt bị đơn ông Dương Văn M là có căn cứ phù hợp điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân. Kiểm sát viên tham gia phiên tòa khẳng định quá trình thu thập chứng cứ và tại phiên tòa, Tòa án thực hiện đầy đủ và đúng các quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Xét lời khai của đương sự và tài liệu trong hồ sơ vụ án, xác định: bà Bùi Thị H và ông Dương Văn M tự nguyện chung sống với nhau và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn EK, huyện EK, tỉnh Đắk Lắk vào ngày 12/02/2019 (được cấp giấy chứng nhận kết hôn lưu hồ sơ vụ án) nên hôn nhân giữa bà H và ông M là hôn nhân hợp pháp.

Căn cứ vào biên bản xác minh chính quyền địa phương nơi các đương sự cư trú phù hợp với lời khai của nguyên đơn trong quá trình thu thập chứng cứ và tại phiên tòa, xác định: bà Bùi Thị H và ông Dương Văn M chung sống hạnh P đến năm 2021 thì phát sinh mâu thuẫn, kéo dài. Nguyên nhân do vợ chồng bất đồng về quan điểm sống, tính cách không hòa hợp, vợ chồng không có sự tin tưởng và thông cảm cho nhau, ông M hay uống rượu say nên thường xuyên xảy ra cãi nhau, xích mích trong cuộc sống, không tôn trọng nhau. Đến tháng 05 năm 2021 thì ly thân nhau cho đến nay. Như vậy, xét tình trạng mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà H xác định tình cảm vợ chồng không còn. Do đó, xét yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn bà Bùi Thị H là có căn cứ, phù hợp với khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân gia đình, cần chấp nhận.

[3] Về con chung: Theo kết quả xác minh và lời trình bày của nguyên đơn nhận thấy: hiện nay, bà H đang đang làm nhân viên bán hàng của Viettet, thu nhập ổn định, trong khi ông M làm nghề thợ xây thường xuyên không có mặt ở nhà và thu nhập không ổn định. Ngoài ra, sau khi ly thân thì con chung Dương Hoàng P, sinh ngày 01/02/2019 do bà H nuôi dưỡng và ổn định việc học tập, ông M ít đến thăm con, không quan tâm và chăm sóc cho con chung. Vì vậy, yêu cầu của nguyên đơn bà H được trực tiếp nuôi dưỡng con chung Dương Hoàng P, sinh ngày 01/02/2019 là có căn cứ, phù hợp với các Điều 81, Điều 82 Luật hôn nhân gia đình, cần chấp nhận.

[4] Về cấp dưỡng phí tổn nuôi con chung: Đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra để giải quyết.

Ông Dương Văn M có quyền đi lại thăm nom con chung và không bị cản trở. Tuy nhiên, ông M không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung. Vì lợi ích của con chung các bên đương sự có quyền yêu cầu thay đổi việc nuôi con chung và cấp dưỡng phí tổn nuôi con chung.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra để giải quyết.

[5] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự, điểm a Khoản 5 tiểu mục 1.1 mục 1 phần II (Danh mục án phí) Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Nguyên đơn bà Bùi Thị H phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, được khấu trừ vào 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 60AA/2021/0006175 ngày 31 tháng 5 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện EaKar, tỉnh Đắk Lắk.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1 Điều 28, Khoản 1 Điều 35, Khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b Khoản 2 Điều 227, Điều 266 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật hôn nhân gia đình; điểm a Khoản 5 tiểu mục 1.1 mục 1 phần II (Danh mục án phí) Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

1. Về hôn nhân: Tuyên xử bà Bùi Thị H được ly hôn với ông Dương Văn M.

2. Về con chung: Giao con chung Dương Hoàng P, sinh ngày 01/02/2019 cho bà Bùi Thị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục đến khi con chung đủ 18 tuổi.

Về cấp dưỡng phí tổn nuôi con chung: Đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do đó, Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

Ông Dương Văn M có quyền đi lại thăm nom con chung và không bị cản trở. Tuy nhiên, ông M không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung. Vì lợi ích của con chung các bên đương sự có quyền yêu cầu thay đổi việc nuôi con chung và cấp dưỡng phí tổn nuôi con chung.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do đó, Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

4. Về án phí: Nguyên đơn bà Bùi Thị H phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, được khấu trừ vào 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 60AA/2021/0006175 ngày 31 tháng 5 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện EaKar, tỉnh Đắk Lắk.

5. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ nơi đương sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

66
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án vê ly hôn, tranh chấp nuôi con số 42/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:42/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ea Kar - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về