Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 406/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HOÀ, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 406/2022/HNGĐ-ST NGÀY 30/09/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 30 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai tiến hành xét xử sơ thẩm vụ án dân sự thụ lý số: 1533/2022/TLST- HNGĐ ngày 26 tháng 5 năm 2022, về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 338/2022/QĐXXST - HNGĐ, ngày 22 tháng 8 năm 2022, Quyết định hoãn phiên toà số 429/2022/QĐST-HNGĐ ngày 12 tháng 9 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Cẩm V, sinh năm 1991.

Địa chỉ: Tổ 4, ấp Long Khánh 3, xã P (nay là khu phố Long Khánh 3, phường P), thành phố H, tỉnh Đồng Nai.

- Bị đơn: Ông Nguyễn Duy T, sinh năm 1989.

Địa chỉ: tổ 8, khu phố Long Khánh 2, phường P, thành phố H, tỉnh Đồng Nai (Các đương sự vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện, quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn Nguyễn Thị Cẩm V trình bày:

Bà và ông Nguyễn Duy T tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn và được UBND xã Vĩnh Hoà, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương cấp Giấy chứng nhận kết hôn ngày 03/12/2014.

Vợ chồng chung sống hạnh phúc thời gian đầu, thời gian sau thường xuyên xảy ra mâu thuẫn nguyên nhân do bất đồng quan điểm, tính tình không hợp, vợ chồng hay cãi nhau. Vợ chồng đã nhiều lần hàn gắn, hoà giải đoàn tụ nhưng không thành, nên bà và ông T sống ly thân từ tháng 4/2022 đến nay. Nay nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, hoà giải đoàn tụ không thành nên bà xin được ly hôn với ông T.

Về con chung: Quá trình chung sống, bà và ông T có 01 con chung là cháu Nguyễn Duy A, sinh ngày 18/4/2016. Ly hôn, bà yêu cầu được quyền trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu A. Tạm thời không yêu cầu ông Nguyễn Duy T cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Tự thoả thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết; Nợ chung:

Không có.

Bà xin xét xử vắng mặt do bận công việc.

* Bị đơn ông Nguyễn Duy T đã được Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng hợp lệ nhưng không có ý kiến, không đến Toà án để tham gia tố tụng.

* Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn vắng mặt tại phiên tòa nhưng đã có lời khai, có yêu cầu giải quyết vắng mặt nên nguyên đơn thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, 71 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn vắng mặt tại phiên toà, không có lời khai nên bị đơn không thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, 72 Bộ luật tố tụng dân sự.

Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà V.

Về con chung: Giao cháu Nguyễn Duy A, sinh ngày 18/4/2016 cho bà V trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Tạm thời ông Nguyễn Duy T không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Bà V trình bày tự thỏa thuận, không yêu cầu Toà án giải quyết; chưa lấy được ý kiến của ông T nên không xem xét giải quyết.

Về nợ chung: Bà V trình bày không có, không yêu cầu Toà án giải quyết;

chưa lấy được ý kiến của ông T nên không xem xét giải quyết.

Về án phí: Bà V phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Bà Nguyễn Thị Cẩm V khởi kiện về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” đối với bị đơn là ông Nguyễn Duy T. Kết quả xác minh do Công an phường Tam Phước, thành phố Biên Hoà cung cấp, thể hiện bị đơn ông T có đăng ký tạm trú tại địa chỉ tổ 8, khu phố Long Khánh 2, phường P, thành phố H, tỉnh Đồng Nai vào tháng 3/2022 nhưng hiện nay không còn sinh sống tại địa phương từ cuối tháng 5/2022. Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án trên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa.

Toà án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho ông T nhưng ông T không đến Toà án để làm việc, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hoà giải, các phiên toà xét xử mà không có lý do; Nguyên đơn bà V có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ vào Điều 207, Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với bà V, ông T.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà V và ông T kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn và được UBND xã Vĩnh Hoà, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 01 ngày 03/12/2014, nên là hôn nhân hợp pháp theo Điều 9, Điều 11, Điều 12 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 nên được pháp luật công nhận, bảo vệ.

Theo trình bày của bà V thì quá trình chung sống vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, bất đồng về quan điểm sống, thường xuyên xảy ra xung đột dẫn đến vợ chồng không còn tôn trọng lẫn nhau. Bà V và ông T đã nhiều lần tìm cách giải quyết mâu thuẫn nhưng không có kết quả, mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng. Nay nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, không thể hàn gắn đoàn tụ, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà V xin được ly hôn với ông T.

Tại biên bản xác minh ngày 19/7/2022, địa phương cung cấp không nắm được thông tin mâu thuẫn giữa bà V, ông T do bà V, ông T không trình báo với địa phương. Tuy nhiên, quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho ông T nhưng ông T vẫn không có ý kiến chứng tỏ ông T bỏ mặc, không mong muốn bảo vệ và duy trì hôn nhân với bà V. Xét thấy, mâu thuẫn giữa bà V, ông T đã lâm vào tình trạng trầm trọng. Ông T không có thiện chí hoặc biện pháp để hàn gắn gia đình, mục đích hôn nhân không đạt. Vì vậy, nay bà V xin ly hôn với ông T là có căn cứ, phù hợp với quy định tại Điều 51, Điều 56, Điều 131 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 nên được chấp nhận.

[2.2] Về con chung: Quá trình chung sống bà V và ông T có 01 con chung là cháu Nguyễn Duy A, sinh ngày 18/4/2016. Hiện nay cháu A đang do bà V trực tiếp chăm sóc, giáo dục. Ly hôn, bà V có nguyện vọng được quyền trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu A, không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung. Về điều kiện nuôi con của bà V như sau: Hiện tại bà V đang làm việc tại Công ty TNHH MTV Phú Lương VN với mức thu nhập trung bình khoảng 15.000.000 đồng/tháng, thời gian làm việc giờ hành chính. Nhận thấy thời gian qua, bà V chăm sóc cháu A tốt. Xét về điều kiện nuôi dưỡng con thì bà V đảm bảo có công việc và thu nhập ổn định. Mặc khác, cháu A còn nhỏ cần có sự chăm sóc của người mẹ. Vì vậy, vì quyền lợi mọi mặt của cháu A, đảm bảo cuộc sống ổn định không ảnh hưởng đến tâm lý của cháu thì tại thời điểm hiện nay việc giao cháu A cho bà V trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp. Vì vậy yêu cầu nuôi dưỡng cháu A của bà V là có cơ sở chấp nhận.

Do bà V không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung, nên tạm thời ông T không phải cấp dưỡng nuôi con. Ông T có quyền, nghĩa vụ đi lại thăm nom con chung, không ai được cản trở ông T thực hiện quyền này. Vì quyền lợi của con chung, khi cần thiết các bên được quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con và yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

[2.3] Về tài sản chung: Bà V trình bày tự thỏa thuận, không yêu cầu Toà án giải quyết; chưa lấy được ý kiến của ông T nên không xem xét giải quyết.

[2.4] Về nợ chung: Về nợ chung: Bà V trình bày không có, không yêu cầu Toà án giải quyết; chưa lấy được ý kiến của ông T nên không xem xét giải quyết.

[3] Về án phí: Bà V phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.

[4] Xét đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hoà thì thấy phù hợp với tài liệu, chứng cứ, quy định pháp luật và nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ:

- Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147; Điều 266, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Các Điều 9, 11, 12 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000;

- Các Điều 51, Điều 53, Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 và Điều 131 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Cẩm V.

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Cẩm V được ly hôn với ông Nguyễn Duy T.

- Về con chung: Giao cháu Nguyễn Duy A, sinh ngày 18 tháng 4 năm 2016 cho bà Nguyễn Thị Cẩm V được trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng. Tạm thời ông Nguyễn Duy T không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Ông T có quyền, nghĩa vụ đi lại thăm nom con chung, không ai được cản trở ông T thực hiện quyền này. Vì quyền lợi của con chung, khi cần thiết các bên được quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con chung và yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét, giải quyết.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị Cẩm V phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí ly hôn, được khấu trừ vào 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí bà V đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Biên Hoà theo biên lai thu số 0002837 ngày 19 tháng 5 năm 2022 (đã nộp xong).

3. Các đương sự có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

159
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 406/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:406/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về