Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 332/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ Q, TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 332/2022/HNGĐ-ST NGÀY 11/03/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 11 tháng 3 năm 2022, tại Trụ sở Toà án nhân dân thành phố Q, tỉnh Bình Định, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 138/2021/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 11 năm 2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 47/2022/QĐXX-ST ngày 08 tháng 02 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 59/2022/QĐST-HNGĐ ngày 28 tháng 02 năm 2022, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Thúy H, sinh năm: 1978; Địa chỉ: 28 NHT, Tp. Q, tỉnh Bình Định.

Bị đơn: Anh Lê Văn Q, sinh năm: 1971; Địa chỉ: 28 NHT, Tp. Q, tỉnh Bình Định.

Chị H có đơn xin xét xử vắng mặt, anh Q vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 04 tháng 11 năm 2021 và các lời khai tiếp theo, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thúy H trình bày:

Chị và anh Lê Văn Q đăng ký kết hôn vào ngày 03/9/2004 tại UBND P. TP, Tp. Q. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống không hạnh phúc, thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh Q không có nghề nghiệp ổn định, thường hay cờ bạc, cá độ bóng đá gây nợ nần. Chị đã nhiều lần trả nợ thay cho anh Q, chị khuyên can nhưng anh Q không nghe mà còn tiếp tục lao vào cờ bạc, nhiều lúc thua cá độ anh Q kiếm chuyện chửi, đánh mẹ con chị gây ảnh hưởng tâm lý của các con. Cách đây bốn năm chị đã nộp đơn ly hôn nhưng anh Q hứa sẽ thay đổi nhưng sau đó anh vẫn tiếp tục lao vào cờ bạc, cá độ bóng đá gây nợ nần, chị phải đứng ra tiếp tục trả nợ cho anh. Nay chị nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên yêu cầu Tòa cho chị được ly hôn anh Q.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên Lê Phương Thanh Tr, sinh ngày 26/01/2004 và Lê Phương Thanh X, sinh ngày 13/5/2007. Hiện nay các cháu đang ở với anh, chị, sức khỏe bình thường. Trước đây chị yêu cầu được nuôi hai cháu X và Tr nhưng hiện nay cháu Tr đã trưởng thành nên chị chỉ yêu cầu được nuôi cháu X, không yêu cầu anh Q cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa giải quyết.

- Tại biên bản lấy lời khai ngày 18/11/2021 bị đơn anh Lê Văn Q trình bày:

Anh và chị Nguyễn Thị Thúy H có đăng ký kết hôn tại UBND phường TP, Tp. Q, thời gian đăng ký cụ thể anh không nhớ. Nay chị H yêu cầu ly hôn, anh đồng ý.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên Lê Phương Thanh Tr và Lê Phương Thanh X. Anh đồng ý giao hai con cho chị H nuôi. Hiện nay anh không có việc làm nên xin không cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Anh không yêu cầu Tòa giải quyết.

+ Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Tp. Q phát biểu việc tuân thủ pháp luật về tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án:

- Thẩm phán đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm xét xử sơ thẩm. Tại phiên tòa sơ thẩm, Thẩm phán và Hội đồng xét xử tuân thủ đúng theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

- Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng dân sự: Nguyên đơn đã thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, 71 Bộ luật tố tụng dân sự; bị đơn không thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, 72 Bộ luật tố tụng dân sự.

+ Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình.

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Thúy H về việc xin ly hôn anh Lê Văn Q.

- Giao cháu Lê Phương Thanh X cho chị Nguyễn Thị Thúy H trực tiếp nuôi dưỡng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên toà và căn cứ kết quả tranh tụng, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Chị Nguyễn Thị Thúy H có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết về việc ly hôn với anh Lê Văn Q, trú tại địa chỉ: 28 NHT, Tp. Q, tỉnh Bình Định nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Q, tỉnh Bình Định theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về sự vắng mặt của đương sự: Trước khi xét xử, Tòa án đã tiến hành các thủ tục tống đạt, niêm yết hợp lệ các văn bản tố tụng đối với chị H và anh Q nhưng anh Q không có mặt tại phiên tòa, chị H có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ điểm a, b khoản 2 Điều 227; Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh Lê Văn Q, chị Nguyễn Thị Thúy H.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Thúy H và anh Lê Văn Q tự nguyện tìm hiểu, đăng ký kết hôn vào ngày 03/9/2004 tại UBND Phường. TP, Tp. Q trên cơ sở tự nguyện nên quan hệ hôn nhân giữa chị H và anh Q là hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận và bảo vệ. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống không hạnh phúc, thường xuyên phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh Q hay cờ bạc, cá độ bóng đá gây nợ nần, chị đã nhiều lần trả nợ thay cho anh nhưng anh không thay đổi mà còn kiếm chuyện đánh mẹ con chị gây ảnh hưởng tâm lý đến các con. Chị nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên yêu cầu Tòa cho chị được ly hôn anh Q. Về phía anh Q mặc dù Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng anh Q không đến Tòa làm việc nên Tòa án đã kết hợp với chính quyền địa phương đến nhà anh Q lấy lời khai và anh Q đồng ý ly hôn theo yêu cầu của chị H.

Hội đồng xét xử xét thấy: Tình trạng hôn nhân giữa chị H và anh Q đã đến mức trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nếu tiếp tục chung sống sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống của anh chị và các con. Do đó, chị H yêu cầu ly hôn anh Q là phù hợp với khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[2.2] Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là cháu Lê Phương Thanh Tr, sinh ngày 26/01/2004 và Lê Phương Thanh X, sinh ngày 13/5/2007. Khi ly hôn, chị H yêu cầu được nuôi cháu X; cháu Tr đã trưởng thành nên không yêu cầu Tòa giải quyết. Xét thấy: Tại biên bản lấy lời khai ngày 16/11/2021 cháu Lê Phương Thanh X có nguyện vọng được ở với mẹ. Đồng thời anh Q cũng đồng ý giao cháu X cho chị H nuôi dưỡng. Do đó, Hội đồng xét xử giao cháu Lê Phương Thanh X cho chị H nuôi dưỡng là phù hợp với Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Nguyễn Thị Thúy H và anh Lê Văn Q không yêu cầu nên Tòa không xem xét giải quyết.

[2.3] Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị Thúy H và anh Lê Văn Q không yêu cầu nên Tòa không xem xét giải quyết.

[2.4] Về án phí: Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, chị Nguyễn Thị Thúy H phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

[2.5] Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa về nội dung vụ án là có căn cứ và phù hợp với quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; điểm a, b khoản 2 Điều 227; Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ khoản 1 Điều 56, các Điều 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1.Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Thúy H được ly hôn anh Lê Văn Q.

2. Về nuôi con chung:

2.1. Giao cháu Lê Phương Thanh X, sinh ngày 13/5/2007 cho chị Nguyễn Thị Thúy H trực tiếp nuôi dưỡng.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Nếu người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Vì lợi ích của con khi cần thiết hai bên đều có quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.

2.2. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Nguyễn Thị Thúy H và anh Lê Văn Q không yêu cầu nên Tòa không xem xét giải quyết.

3. Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị Thúy H và anh Lê Văn Q không yêu cầu nên Tòa không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Thúy H phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm được khấu trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0003039 ngày 05 tháng 11 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Quy N.

5. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

151
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 332/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:332/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Qui Nhơn - Bình Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về