Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 33/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGA SƠN, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 33/2021/HNGĐ-ST NGÀY 02/08/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON.

Ngày 02 tháng 8 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 37/2021/TLST-HNGĐ ngày 24 tháng 3 năm 2021 về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 22/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 15 tháng 6 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lê Thị M, sinh năm 1995; địa chỉ: Xóm 6, xã C, huyện H, tỉnh Thanh Hóa; có mặt.

2. Bị đơn: Anh Bùi Văn Q, sinh năm 1989; địa chỉ: Thôn 5, xã V, huyện N, tỉnh Thanh Hóa; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 18/3/2021, bản tự khai ngày 26/3/2021 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Lê Thị M trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Bùi Văn Q kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân (UBND) xã C, huyện H, tỉnh Thanh Hóa, vào ngày 19/10/2015. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng tính tình không hòa hợp, quan điểm sống trái ngược nhau, thường xuyên xảy ra cãi vả, không thể chung sống cùng nhau. Vợ chồng đã ly thân nhau từ tháng 11/2018 đến nay, không còn quan tâm gì đến nhau nữa. Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, không thể tiếp tục chung sống với nhau được nữa nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Q.

Về con: Vợ chồng có một con chung là Bùi Quang M sinh ngày 22/01/2017. Chị M đề nghị được trực tiếp nuôi con và không yêu cầu anh Q cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản: Vợ chồng không có tài sản gì chung, nên chị M không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với bị đơn Bùi Văn Q: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã thực hiện việc tống đạt (bằng thủ tục niêm yết công khai) thông báo về việc thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải hợp lệ cho anh Q nhưng anh Q đều vắng mặt, không đến Tòa án để thực hiện việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, nên Tòa án không tiến hành hòa giải được. Tại phiên tòa lần thứ nhất anh Q vắng mặt nên Hội đồng xét xử (HĐXX) đã ra quyết định hoãn phiên tòa. Tại phiên tòa hôm nay, anh Q vẫn vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan, nên HĐXX quyết định xét xử vắng mặt anh Q.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát: Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, HĐXX, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý đến trước thời điểm HĐXX nghị án đã tuân theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS), tuy nhiên thủ tục tống đạt các văn bản tố tụng cho bị đơn chưa đảm bảo theo quy định tại khoản 5 Điều 177 của BLTTDS; việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn đã thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật, còn bị đơn không chấp hành quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình. Về giải quyết vụ án: Đề nghị HĐXX chấp nhận đơn khởi kiện của chị Lê Thị M, cho chị M được ly hôn anh Q; về con: giao cháu Bùi Quang M cho chị M trực tiếp nuôi dưỡng, anh Q không phải cấp dưỡng nuôi con chung; về án phí: chị M phải chịu án phí dân sự sơ thẩm (DSST) về việc ly hôn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

* Về thủ tục tố tụng: Chị Lê Thị M có đơn đề nghị Tòa án nhân dân huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa giải quyết việc ly hôn giữa chị và anh Bùi Văn Q. Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của BLTTDS thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, anh Bùi Văn Q vắng mặt tại phiên tòa nên căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 của BLTTDS, Tòa án xét xử vắng mặt đối với anh Q.

* Về nội dung giải quyết:

[1] Về hôn nhân: Chị Lê Thị M và anh Bùi Văn Q kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn theo chị M trình bày là do vợ chồng tính tình không hòa hợp, bất đồng quan điểm sống, thường xuyên xảy ra cãi vả nhau. Vợ chồng đã ly thân nhau từ tháng 11/2018 đến nay. Qua xác minh tại địa phương, ông Hà Minh G, trưởng thôn 5, xã V có ý kiến: sau khi kết hôn, vợ chồng anh Q, chị M chung sống bình thường, thời gian sau vợ chồng xảy ra một số mâu thuẫn dẫn đến việc chị M bế con về bên ngoại ở huyện H sinh sống, hiện tại anh Q và chị M đã ly thân nhau. Từ những mâu thuẫn nêu trên, chứng tỏ tình cảm vợ chồng không còn, tình trạng hôn nhân không đạt được, bản thân anh Q cũng không có ý kiến gì về yêu cầu ly hôn của chị M, nên HĐXX chấp nhận đơn khởi kiện của chị M, cho chị M được ly hôn anh Q là phù hợp với quy định của pháp luật.

[2] Về con: Vợ chồng có một con chung là Bùi Quang M sinh ngày 22/01/2017. Chị M yêu cầu được trực tiếp nuôi con, xét thấy cháu M vẫn còn nhỏ tuổi và hiện đang ở cùng với mẹ, còn anh Q không có ý kiến gì, nên HĐXX chấp nhận yêu cầu của chị M, giao cháu M cho chị M trực tiếp nuôi dưỡng, anh Q không phải cấp dưỡng nuôi con chung do chị M không yêu cầu.

[3] Về tài sản: Chị M không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản, còn anh Q không có ý kiến gì, nên miễn xét.

[4] Về án phí: Chị M phải chịu án phí DSST về việc ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 4 Điều 147, Điều 271 và khoản 1 Điều 273 BLTTDS; điểm a khoản 1 Điều 24, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận đơn khởi kiện của chị Lê Thị M, cho chị M được ly hôn anh Bùi Văn Q.

2. Về con: Giao cháu Bùi Quang M sinh ngày 22/01/2017 cho chị Lê Thị M trực tiếp nuôi dưỡng, anh Bùi Văn Q không phải cấp dưỡng nuôi con chung do chị M không yêu cầu. Anh Q có quyền đi lại thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Lê Thị M phải chịu án phí DSST về việc ly hôn là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng), nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí DSST đã nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí toà án số AA/2019/0011002 ngày 24/3/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nga Sơn, chị M đã nộp đủ án phí DSST.

Về quyền kháng cáo: Chị Lê Thị M có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, anh Bùi Văn Q có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

256
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 33/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:33/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 1 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 02/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về