Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 29/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TRẢNG BÀNG, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 29/2022/HNGĐ-ST NGÀY 23/05/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 23 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 51/2022/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 4 năm 2022 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 31/2022/QĐXX-ST ngày 06 tháng 5 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trần Thị Tuyết M, sinh năm 1980. Địa chỉ đăng ký hộ khẩu: Số 74A Tỉnh lộ 6, khu phố GL, phường TB, thị xã Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh; Địa chỉ nơi cư trú: Số 60, khu phố GL, phường GL, thị xã Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh - Có mặt.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn K, sinh năm 1979. Địa chỉ: 74A Tỉnh lộ 6, khu phố GL, phường TB, thị xã Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh - vắng mặt có đơn xin.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn chị Trần Thị Tuyết M trình bày:

Chị và anh K chung sống từ năm 2004, có tổ chức lễ cưới, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Gia Lộc (nay là UBND phường Gia Lộc) vào ngày 14/9/2004. Sau khi cưới, vợ chồng sống tại gia đình chị M tại khu phố GL, phường GL, thị xã Trảng Bàng, khoảng 02 năm thì ra ở riêng tại khu phố GL, phường TB, thị xã Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh. Năm 2013 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh K hay chơi cờ bạc gây nợ nên chị và cha mẹ chồng phải trả nợ cho anh nhiều lần. Chị khuyên can nhiều lần nhưng anh K không thay đổi nên chị bỏ về nhà cha mẹ ruột sống, vợ chồng ly thân từ năm 2014 đến nay. Quá trình ly thân, anh K vẫn hay tới lui thăm nom, đưa đón các con đi học. Nay chị không còn lòng tin với anh K nên yêu cầu được ly hôn.

Về con chung: Vợ chồng có 02 người con chung tên:

Nguyễn Thành D, sinh ngày 03-10-2007 và Nguyễn Ngọc H, sinh ngày 18- 10-2012. Khi ly hôn chị yêu cầu nuôi 2 cháu, không yêu cầu anh K cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Theo các lời khai và trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn anh Nguyễn Văn K trình bày:

Anh K thừa nhận lời trình bày của chị M là đúng về thời gian chung sống, có đăng ký kết hôn, con chung là đúng. Nguyên nhân mâu thuẫn do anh làm ăn nhưng thua lỗ nên từ đó phát sinh mâu thuẫn về kinh tế gia đình. Vợ chồng ly thân từ năm 2016 đến nay. Quá trình ly thân, anh vẫn đến thăm nom, đưa đón con đi học. Anh vẫn còn thương vợ con xin vợ cho anh cơ hội để vợ chồng đoàn tụ, lo cho các con.

Về con chung: Anh thống nhất là vợ chồng anh có 02 người con như chị M trình bày trên.

Nếu Tòa xét xử cho anh và chị M ly hôn, anh có ý kiến như sau:

Về con chung: Khi ly hôn anh yêu cầu được nuôi dưỡng cháu Nguyễn Ngọc H, và giao cháu Nguyễn Thành D cho chị M nuôi dưỡng, không ai phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết.

Về nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh:

- Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa, người tham gia tố tụng thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

- Về quan điểm giải quyết vụ án:

Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015; Điều 56, 81, 82 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 xem xét, quyết định:

Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu về việc ly hôn của chị Trần Thị Tuyết M đối với anh Nguyễn Văn K, cho chị M được ly hôn anh K Về con chung: Giao cháu Nguyễn Thành D, sinh ngày 03-10-2007, cháu Nguyễn Ngọc H, sinh ngày 18-10-2012 cho chị Trần Thị Tuyết M tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục.

Ghi nhận chị M không yêu cầu anh K cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: không đặt ra giải quyết.

Về nợ chung: không đặt ra giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, xét thấy:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Chị M và anh K chung sống từ năm 2004, có tổ chức lễ cưới, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Gia Lộc (Nay là phường Gia Lộc) vào ngày 14/9/2004. Do đó, hôn nhân của chị M và anh K là hợp pháp. Vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn và tự sống ly thân từ tháng 2016 đến nay. Nay chị M yêu cầu ly hôn anh K nhưng anh K không đồng ý ly hôn chị M. Xét lời trình bày của chị M cho rằng anh K hay chơi cờ bạc gây nợ nên chị và cha mẹ chồng phải trả nợ cho anh nhiều lần. Chị khuyên can nhiều lần nhưng anh K không thay đổi. Ngược lại, anh K trình bày do anh làm ăn nhưng thua lỗ nên từ đó phát sinh mâu thuẫn về kinh tế gia đình. Qua đó, cho thấy chị M và anh K đã mất lòng tin với nhau về tình cảm.

Kết quả xác minh tại địa phương thể hiện: Chị M và anh K thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Mặt khác, anh K trình bày anh không đồng ý ly hôn nhưng anh không đưa ra được giải pháp để vợ chồng chung sống lại với nhau. Do đó, có căn cứ xác định hôn nhân của chị M và anh K lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy, có cơ sở chấp nhận yêu cầu của chị M yêu cầu ly hôn anh K theo quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[2] Về con chung: Quá trình làm việc hỏi ý kiến cháu Nguyễn Thành D, sinh ngày 03-10-2007, cháu Nguyễn Ngọc H, sinh ngày 18-10-2012 thể hiện cháu Danh, cháu Hân đang sống cùng chị M. Nguyện vọng cháu Danh, cháu Hân muốn sống cùng chị M nên giao cháu Nguyễn Thành D, sinh ngày 03-10-2007, cháu Nguyễn Ngọc H, sinh ngày 18-10-2012 cho chị Trần Thị Tuyết M tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục.

Ghi nhận chị M không yêu cầu anh K cấp dưỡng.

[3] Về tài sản chung: không đặt ra giải quyết

[4] Về nợ chung: không đặt ra giải quyết

[5] Như phân tích trên thì đề nghị của Viện kiểm sát về quan điểm giải quyết vụ án là có cơ sở chấp nhận.

[6] Án phí: Chị M phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Trần Thị Tuyết M đối với anh Nguyễn Văn K.

Chị Trần Thị Tuyết M được ly hôn anh Nguyễn Văn K.

2. Về con chung:

Giao cháu Nguyễn Thành D, sinh ngày 03-10-2007, cháu Nguyễn Ngọc H, sinh ngày 18-10-2012 cho chị Trần Thị Tuyết M tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục.

Ghi nhận chị M không yêu cầu anh K cấp dưỡng Anh K có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được quyền cản trở.

3. Về tài sản chung: Không đặt ra giải quyết.

4. Về nợ chung: Không đặt ra giải quyết.

5. Án phí: Chị Trần Thị Tuyết M phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0026531 ngày 05 tháng 4 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh. Chị M đã nộp đủ án phí Báo cho chị M biết có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Anh K vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

237
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 29/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:29/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Trảng Bàng - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về