Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 29/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 29/2022/HNGĐ-ST NGÀY 28/04/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 28 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương, Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 341/2021/TLST-HNGĐ ngày 27 tháng 12 năm 2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 12/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 11 tháng 3 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 07/2022/QĐST-HNGĐ ngày 28 tháng 3 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn : Chị Nguyễn Thị Hồng Tr, sinh năm 1994; HKTT: Số nhà BT/MC/M, đường ĐXCB, Tổ BH, Khu phố S, phường H, thành phố T, tỉnh Bình Dương; địa chỉ liên lạc: Số nhà BB, Tổ M, Ấp H, xã M, huyện C, tỉnh Bình Phước.

2. Bị đơn : Anh Phan Thanh H, sinh năm 1988; cư trú tại: Số nhà BT/MC/M, đường ĐXCB, Tổ BH, Khu phố S, phường H, thành phố T, tỉnh Bình Dương. (Các đương sự vắng mặt tại Tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

[1]. Theo đơn khởi kiện ngày 06 tháng 12 năm 2021 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Hồng Tr trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Tr và anh Phan Thanh H chung sống và đăng ký kết hôn với nhau từ năm 2014 tại Ủy ban nhân dân phường H, thành phố T, tỉnh Bình Dương, theo Giấy chứng nhận kết hôn số 96, ngày 15 tháng 10 năm 2014.

Thời gian đầu chung sống, vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc. Tuy nhiên, thời gian gần đây vợ chồng liên tục xảy ra những mâu thuẫn, tranh cãi gay gắt mà nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ việc tính tình không hợp nhau và quan điểm sống quá khác biệt. Chị Tr nhận thấy rằng sẽ khó có thể tiếp tục xây dựng một gia đình hòa thuận, hạnh phúc như mong muốn trong tình trạng mâu thuẫn trầm trọng như vậy. Do đó, từ tháng 10/2020 cho đến nay chị Tr và anh H sống ly thân với nhau, chị Tr phải trở về nhà tại tỉnh Bình Phước để sinh sống và làm việc, còn anh H thì vẫn sinh sống tại thành phố T, tỉnh Bình Dương và từ đó cho đến nay, không ai còn quan tâm đến ai nữa.

Nhận thấy, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, chỉ còn ràng buộc với nhau về mặt pháp lý nên chị Tr yêu cầu được ly hôn với anh H.

Về con chung: Chị Tr và anh H có 02 con chung là cháu Phan Thanh Hồng Th, sinh ngày 05/12/2014 và cháu Phan Thanh T, sinh ngày 26/02/2017. Từ khi ly thân cho đến nay, các con của chị Tr vẫn đang sinh sống cùng anh H và gia đình nhà nội. Vì vậy, chị Tr đồng ý giao các con chung cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc; chị Tr sẽ gặp anh H để thỏa thuận về vấn đề cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị Tr không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[2]. Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn anh Phan Thanh H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần đến Tòa án để làm việc, tham gia hòa giải nhưng vẫn vắng mặt không có lý do và cũng không gửi văn bản ghi ý kiến của mình cho Tòa án nên Tòa án không thể ghi nhận ý kiến của anh H được.

Tại phiên tòa, - Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Hồng Tr vắng, có đơn xin giải quyết vắng mặt.

- Bị đơn anh Phan Thanh H vắng mặt không có lý do.

- Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:

+ Về tuân theo pháp luật tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án đến khi khai mạc phiên tòa sơ thẩm, Thẩm phán, Thư ký đã tiến hành tố tụng đúng quy định của pháp luật, nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình theo quy định pháp luật, riêng bị đơn anh Phan Thanh H đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng không tham gia phiên tòa nên Tòa án xét xử vắng mặt anh Phan Thanh H là đúng quy định tại Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tại phiên tòa sơ thẩm, Hội đồng xét xử đã thực hiện đầy đủ thẩm quyền theo quy định đối với những người tiến hành tố tụng. Do nguyên đơn chị Nguyễn Thị Hồng Tr có đơn xin giải quyết vắng mặt nên Tòa án xét xử vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng là đúng theo quy định tại Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Kiểm sát viên không kiến nghị khắc phục gì thêm.

+ Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 56, 81, 82, 83 và 84 của Luật hôn nhân và Gia đình, chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng:

[1.1] Về quan hệ pháp luật: Ngày 06 tháng 12 năm 2020, chị Nguyễn Thị Hồng Tr có đơn khởi kiện yêu cầu được ly hôn với anh Phan Thanh H; đồng ý giao các con chung là cháu Phan Thanh Hồng Th, sinh ngày 05/12/2014 và cháu Phan Thanh T, sinh ngày 26/02/2017 cho anh Phan Thanh H được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc nên đây là vụ án “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quy định tại Điều 51, Điều 53 của Luật Hôn nhân và Gia đình.

[1.2] Về thẩm quyền: Tại thời điểm thụ lý, bị đơn anh Phan Thanh H đang cư trú tại thành phố T, tỉnh Bình Dương nên căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì đây là vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.

[1.3] Về việc tham gia phiên tòa của đương sự: Tại phiên tòa, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Hồng Tr có đơn xin giải quyết vắng mặt; bị đơn anh Phan Thanh H vắng mặt không có lý do mặc dù đã được triệu tập đến tham dự phiên tòa lần thứ hai. Vì vậy, căn cứ vào khoản 2 Điều 227, Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một tiến hành xét xử vụ án vắng mặt tất cả các đương sự.

[2] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Hội đồng xét xử xét thấy:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Tr và anh H chung sống với nhau từ năm 2014, ngày 15 tháng 10 năm 2014 chị Tr và anh H đăng ký kết hôn với nhau tại Ủy ban nhân dân phường H, thành phố T, tỉnh Bình Dương. Việc chung sống và đăng ký kết hôn giữa chị Tr và anh H là hoàn toàn tự nguyện, không bên nào bị ép buộc nên đã tuân thủ đúng quy định tại Điều 9 của Luật Hôn nhân và Gia đình, do đó hôn nhân giữa chị Tr và anh H là hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Quá trình chung sống, chị Tr xác định vợ chồng chỉ chung sống hạnh phúc được thời gian đầu, thời gian gần đây thì vợ chồng có nhiều mâu thuẫn mà nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống và mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng; từ tháng 10/2020 cho đến nay chị Tr và anh H sống ly thân với nhau, chị Tr trở về nhà tại tỉnh Bình Phước để sinh sống và làm việc, còn anh H thì vẫn sinh sống tại thành phố T, tỉnh Bình Dương, không ai còn quan tâm đến ai nữa. Việc, chị Tr và anh H không còn quan tâm, thương yêu, chăm sóc và giúp đỡ lẫn nhau và không cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình dẫn đến tình cảm vợ chồng không còn là đã vi phạm nghiêm trọng quyền và nghĩa vụ của vợ chồng theo quy định tại Điều 19 của Luật Hôn nhân và Gia đình. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập hợp lệ anh H nhiều lần để Tòa án tiến hành hòa giải đoàn tụ gia đình nhưng anh H vẫn cố tình vắng mặt, điều này chứng tỏ anh H không có thiện chí mong muốn gia đình được đoàn tụ.

Như vậy, có đủ cơ sở khẳng định, hôn nhân giữa chị Tr và anh H đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ vào Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình, cần chấp nhận yêu cầu của chị Tr, cho chị Tr được ly hôn với anh H.

[2.2] Về con chung: Chị Tr và anh H có 02 con chung là cháu Phan Thanh Hồng Th, sinh ngày 05/12/2014 và cháu Phan Thanh T, sinh ngày 26/02/2017. Từ khi ly thân cho đến nay, các con vẫn đang sinh sống cùng anh H và gia đình nhà nội. Vì vậy, sau khi ly hôn, chị Tr đồng ý giao các con chung cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc. Xét thấy, quá trình giải quyết vụ án Tòa án nhiều lần yêu cầu chị Tr cung cấp cho Tòa án về nguyện vọng của cháu Phan Thanh Hồng Th nhưng chị Tr không cung cấp được với lý do anh H không đồng ý cho chị Tr gặp các con. Còn anh H, không đến Tòa án làm việc nên không biết được nguyện vọng và khả năng của anh H về phần con chung là như thế nào. Vì vậy, để các con chung của chị Tr và anh H có điều kiện phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ, đạo đức, trở thành người con hiếu thảo của gia đình, công dân có ích cho xã hội, cần giao các con cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc là phù hợp nên yêu cầu của chị Tr về phần con chung được chấp nhận.

[2.3]. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Tr không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

[2.4]. Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

[3]. Tại Tòa, quan điểm giải quyết vụ án của Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một là có cơ sở.

[4]. Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Căn cứ Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Chị Tr phải chịu 300.000 đồng; anh H không phải chịu.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39, các Điều 147, 227, 238, 266, 267, 271 và 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Căn cứ các Điều 56, 81, 82, 83 và 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Hồng Tr về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” đối với bị đơn là anh Phan Thanh H.

1.1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Hồng Tr được ly hôn với anh Phan Thanh H.

1.2. Về con chung: Anh Phan Thanh H được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con chung là cháu Phan Thanh Hồng Th, sinh ngày 05/12/2014 và cháu Phan Thanh T, sinh ngày 26/02/2017.

1.3. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Không xem xét giải quyết.

1.4. Người không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ đi lại, thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung mà không ai có quyền cấm đoán, ngăn cản. Vì lợi ích mọi mặt của con chưa thành niên, các bên có quyền yêu cầu mức cấp dưỡng, xin thay đổi người trực tiếp nuôi con nếu có căn cứ cho rằng bên kia không đáp ứng được quyền lợi của con.

1.5. Về tài sản chung và nợ chung: Không xem xét giải quyết.

2. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Hồng Tr phải nộp 300.000 (ba trăm ngàn) đồng; được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị Nguyễn Thị Hồng Tr đã nộp là 300.000 (ba trăm ngàn) đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000734 ngày 16/12/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.

3. Các đương sự được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

203
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 29/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:29/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một - Bình Dương
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 28/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về