Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 27/2021/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÔNG LÔ, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 27/2021/HNGĐ-ST NGÀY 08/09/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 08 tháng 9 năm 2021, tại hội trường xét xử Toà án nhân dân huyện Sông Lô xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 221/2020/TLST - HNGĐ ngày 15 tháng 12 năm 2020 về tranh chấp: "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con", theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 26/2021/QĐXXST - HNGĐ ngày 15 tháng 6 năm 2021; Quyết định hoãn phiên tòa số: 22/2021/QĐST- HNGĐ ngày 15 tháng 7 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 33/2021/QĐST- HNGĐ ngày 13 tháng 8 năm 2021giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Kiều Thị B, sinh năm 1984; Địa chỉ: Thôn C xã C, huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt);

Bị đơn: Anh Khổng Ngọc C, sinh năm 1983; Địa chỉ: Thôn C, xã C, huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc; (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, những lời khai tiếp theo trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Kiều Thị B trình bày: Chị kết hôn với anh Khổng Ngọc C ngày 02/02/2005 và đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã C, Lập Thạch (nay là huyện Sông Lô), tỉnh Vĩnh Phúc. Trước khi kết hôn anh chị được tự do tìm hiểu, tự nguyện kết hôn và không bị ai lừa dối, ép buộc kết hôn. Sau ngày cưới chị về làm dâu và ở chung cùng gia đình anh C ngay.Thời gian đầu vợ chồng chung sống hòa thuận hạnh phúc được khoảng vài năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do trong quá trình chung sống tính tình vợ chồng không hợp nhau, anh C ham chơi không chịu làm ăn nên vợ chồng thường xuyên bất đồng quan điểm sống dẫn đến tình cảm vợ chồng không hạnh phúc. Nhiều khi mâu thuẫn anh C có hành vi đánh đập, chửi bới xúc phạm vợ con. Mâu thuẫn giữa vợ chồng kéo dài từ năm 2015 đến nay và trong quá trình chung sống vợ chồng thường không quan tâm chăm sóc đến nhau, mạnh ai người đó sống. Chị cố gắng chịu đựng vì các con trong khoảng thời gian dài nhưng anh C vẫn không thay đổi. Hơn nữa từ khi anh C sử dụng ma túy đá có những hành xử như tức giận vô cớ, chửi bới vợ con, đánh đập chị và cháu C rất nhiều. Lo sợ ảnh hưởng đến tính mạng của các con nên chị và các con về ở cùng bố mẹ đẻ chị tại thôn Nt, xã C. Nay chị xác định đời sống chung đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, tình cảm vợ chồng không còn nên chị đề nghị Tòa án xem xét giải quyết cho tôi được ly hôn anh Chính.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Khổng Chiến C, sinh ngày 04/9/2005 và Khổng Thị Thanh H, sinh ngày 24/12/2013. Hiện nay cả hai con đang ở cùng chị. Ly hôn chị đề nghị được quyền trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con. Chị xác định hiện nay chị đi chợ buôn bán tự do thu nhập bình quân khoảng từ 08.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đủ đảm bảo điều kiện chăm sóc các con nên tự nguyện không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản và các nghĩa vụ dân sự: Chị B không đề nghị Toà án giải quyết.

Bị đơn anh Khổng Ngọc C đã được Tòa án thực hiện việc niêm yết, tống đạt giấy triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng anh C không đến tham gia các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận và công khai chứng cứ, phiên hòa giải. Anh C cũng không có văn bản thể hiện ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện đề nghị giải quyết ly hôn và nuôi con chung của chị B. Tại phiên tòa hôm nay anh C cũng vắng mặt mặc dù đã được tống đạt giấy báo hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành lấy lời khai của ông Khổng Văn Đ (bố đẻ anh C), tiến hành xác minh tại UBND xã C đều xác định mâu thuẫn giữa vợ chồng anh chị B C là trầm trọng, anh C đi làm ăn và thỉnh thoảng vẫn có mặt tại địa phương, anh C có biết việc chị B xin ly hôn nhưng không đến Tòa án làm việc và cũng không có quan điểm về ly hôn và nuôi con chung.

Tòa án đã tiến hành lấy lời khai cháu C và cháu H, các cháu đều có nguyện vọng mong muốn được tiếp tục ở cùng chị B.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Lô tại phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa tuân thủ theo đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Đối với người tham gia tố tụng thì nguyên đơn chấp hành đúng các quy định của pháp luật, bị đơn không chấp hành đúng pháp luật như vắng mặt không có lý do từ khi Tòa án thụ lý, giải quyết vụ án cho đến khi mở phiên tòa.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 228, khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án Đề nghị xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Kiều Thị B được ly hôn anh Khổng Ngọc C.

Về nuôi con chung: Đề nghị giao cả hai con cho chị B trực tiếp nuôi dưỡng và anh C không phải cấp dưỡng nuôi con. Quyền thăm nuôi con không ai được cản trở.

Về án phí: Chị B phải chịu theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn là anh Khổng Ngọc C đã được Tòa án tống đạt văn bản tố tụng, niêm yết thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, thông báo phiên tòa sơ thẩm, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa nhưng anh C không đến Tòa án làm việc, cũng không nộp văn bản ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không cung cấp các tài liệu chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Xét thấy bị đơn là anh Khổng Ngọc C vắng mặt tất cả các lần Tòa án thông báo, triệu tập là vi phạm nghĩa vụ của đương sự, tự từ bỏ quyền và nghĩa vụ chứng minh của mình nên Hội đồng xét xử căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án để giải quyết vụ án theo quy định pháp luật. Tại phiên tòa do chị Kiều Thị B có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, anh C vắng mặt không có lý do. Căn cứ vào khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt đối với chị Biên và anh Chính.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Kiều Thị B và anh Khổng Ngọc C kết hôn ngày 02 tháng 02 năm 2005, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã C, huyện Lập Thạch nay là huyện Sông Lô là hôn nhân hợp pháp nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự. Quá trình vợ chồng chung sống theo chị Biên không được hạnh phúc do trong thời gian vợ chồng chung sống anh C không chịu khó làm ăn, vợ chồng bất đồng về quan điểm làm ăn kinh tế, hay cãi chửi nhau, đôi khi anh C còn có hành vi đánh đập, chửi bới xúc phạm chị. Vợ chồngthường xuyên không quan tâm đến nhau, mạnh ai người đó sống. Do vậy chị xác định không còn tình cảm và không thể chung sống cùng anh C và đề nghị giải quyết ly hôn.

Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành lấy lời khai ông Khổng Văn Đ (bố đẻ anh C) thể hiện mặc dù không biết cụ thể về mâu thuẫn vợ chồng anh chị B anh C như thế nào nhưng nay chị B đề nghị giải quyết ly hôn anh C thì ông đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật. Hiện nay anh C đi làm ăn thỉnh thoảng vẫn có mặt tại địa phương và anh C có biết việc chị B đề nghị giải quyết ly hôn. Ông là người nhận thông báo thụ lý vụ án cũng như các văn bản và các giấy triệu tập của Tòa án và ông đã thông báo cho anh C được biết. Tòa án đã tiến hành xác minh tại Uỷ ban nhân dân xã C đều thể hiện anh C đi làm ăn và vẫn thỉnh thoảng có mặt tại địa phương và quá trình vợ chồng anh C và chị B chung sống có nhiều mâu thuẫn. Xét tình trạng hôn nhân giữa chị B và anh C đã trầm trọng, mục đích hôn nhân xây dựng gia đình hạnh phúc không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài, việc chị B xin ly hôn anh C là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật. Anh C biết việc mình được Toà án triệu tập để giải quyết việc chị B xin ly hôn anh nhưng cố tình vắng mặt không đến Tòa án làm việc thể hiện anh C cố tình gây khó khăn cho chị B và không có mong muốn để vợ chồng về đoàn tụ. Căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Kiều Thị B được ly hôn anh Khổng Ngọc C.

[3] Về nuôi con chung: Chị B và anh C có hai con chung là Khổng Chiến C, sinh ngày 04/9/2005 và Khổng Thị Thanh H, sinh ngày 24/12/2013; hiện nay con đang ở cùng chị. Chị B yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con và không yêu cầu anh C phải cấp dưỡng nuôi con. Xét về điều kiện nuôi con của chị Biên thấy rằng hiện nay chị B đang làm nghề tự do đi chợ buôn bán với thu nhập khoảng từ 08.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng/tháng, thu nhập ổn định, đủ điều kiện để nuôi dưỡng con chung. Để tránh sự xáo trộn trong sinh hoạt và ảnh hưởng đến sự phát triển toàn diện của con, do vậy Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị B được trực tiếp nuôi dưỡng cháu C và cháu H, chấp nhận sự tự nguyện của chị Biên về việc không yêu cầu anh C phải cấp dưỡng nuôi con là phù hợp với quy định tại các Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[4] Về tài sản chung và các nghĩa vụ dân sự: Chị B không đề nghị giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[5] Về án phí: Kiều Thị B phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56; Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28; Điều 227, Điều 228, khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a, khoản 1 Điều 24, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Kiều Thị B.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Kiều Thị B được ly hôn anh Khổng Ngọc C.

2. Về quan hệ nuôi con chung: Chị Kiều Thị B được trực tiếp nuôi dưỡng hai con là Khổng Chiến C, sinh ngày 04/9/2005 và Khổng Thị Thanh H, sinh ngày 24/12/2013; hiện nay cháu C, cháu H đang ở cùng chị B. Anh C không phải cấp dưỡng nuôi con.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom, chăm sóc con chung không ai được quyền cản trở. Người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom của người không trực tiếp nuôi con nếu họ lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con chung, trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật.

3/ Về án phí: Chị Kiều Thị B phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm được trừ vào khoản tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số: AA/2017/0009153 ngày 15/12/2020 của chi cục Thi hành án dân sự huyện Sông Lô. Chị Kiều Thị B đã nộp đủ án phí.

Các đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 27/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:27/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sông Lô - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về