Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 24/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN RANG – THÁP CHÀM, TỈNH NINH THUẬN

BẢN ÁN 24/2021/HNGĐ-ST NGÀY 27/04/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 27 tháng 4 năm 2021 tại hội trường xử án, Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số 533/2020/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 10 năm 2020 về việc: “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 19/2021/QĐXXST – HNGĐ ngày 19 tháng 3 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 16/2021/QĐST- HNGĐ ngày 08 tháng 4 năm 2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Phan Thị Ngọc Th, sinh năm: 1995.( Có mặt)

Bị đơn: Ông Lê Quang Hải Â, sinh năm: 1984.( Vắng mặt) Địa chỉ: Khu phố 2, phường ĐV, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 25/8/2020, trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, Nguyên đơn bà Phan Thị Ngọc Th trình bày:

Bà và ông Lê Quang Hải  sau một thời gian tìm hiểu đã tiến đến hôn nhân tự nguyện, vợ chồng có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân UBND phường ĐV, Tp. P, tỉnh Ninh Thuận theo giấy chứng nhận kết hôn số 123 ngày 29 tháng 9 năm 2015. Sau khi kết hôn, vợ chồng tạm trú, làm việc tại Tp. H được 05 năm, sau đó về thành phố P sinh sống cho đến nay. Thời gian sống chung, vợ chông không hạnh phúc, mâu thuẩn kéo dài cho đến nay càng trầm trọng. Nguyên nhân do tính tình không hợp, ông  thường xuyên liên lạc với bạn gái cũ. Bà nhiều lần khuyên nhủ nhưng ông không thay đổi mà còn hành hung, đánh bà nhập viện. Ngoài ra, ông  không lo làm ăn, không quan tâm đến gia đình, vợ con nên bà bỏ về nhà mẹ ruột sống hơn một năm nay. Thời gian xa nhau, vợ chồng mạnh ai nấy sống, không ai đặt vấn đề trở về chung sống cùng nhau nữa. Nay vợ chồng không thể hàn gắn được, tình cảm không còn nên bà yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà ly hôn ông Lê Quang Hải Â.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Lê Ngọc Bảo U, sinh ngày 04/3/2015. Hiện con đang ở với bà. Khi ly hôn, bà yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Bà không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con. Bà làm nhân viên cửa hàng Bách Hóa Xanh, thu nhập bình quân mỗi tháng 5.000.000 đồng, đủ khả năng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà không yêu cầu Tòa án giải quyết, vợ chồng tự thỏa thuận.

Trong quá trình gải quyết vụ án, bị đơn ông Lê Quang Hải  trình bày:

Ông và bà Phan Thị Ngọc Th tiến đến hôn nhân tự nguyện, vợ chồng có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân UBND phường ĐV, Tp. Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận theo giấy chứng nhận kết hôn số 123 ngày 29 tháng 9 năm 2015. Sau khi kết hôn, vợ chồng sinh sống tại Khu phố 2, phường ĐV, thành phố P. Vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn, đến năm 2018 thì tình hình trở nên căng thẳng, bà Th bỏ đi về nhà mẹ ruột sống. Cuối năm 2019, bà Th quay về chung sống đoàn tụ; đầu năm 2020 bà Th bỏ đi cho đến nay, từ đó vợ chồng ly thân, cả hai không quan tâm đến nhau. Nguyên nhân mâu thuẫn do ông ham chơi, công việc gặp khó khăn nên vợ chồng thường cãi vả. Hiện ông vẫn còn tình cảm và theo ông vợ chồng vẫn còn có cơ hội đoàn tụ, do đó ông không đồng ý ly hôn.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Lê Ngọc Bảo U, sinh ngày 04/3/2015. Hiện con đang ở với vợ. Khi ly hôn, ông không đồng ý giao con cho vợ nuôi; ông yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, ông không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con. Ông kinh doanh bất động sản, thu nhập bình quân mỗi tháng 20.000.000 đồng, đủ khả năng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Ông không yêu cầu Tòa án giải quyết, vợ chồng tự thỏa thuận.

Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát: Từ khi thụ lý vụ án đến trước khi HĐXX vào nghị án, Thẩm phán, Thư ký, Nguyên đơn đều tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, riêng Bị đơn vắng mặt dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ. Tại phiên tòa hôm nay, HĐXX đúng thành phần, xét xử đảm bảo đúng quy định của pháp luật. Về việc giải quyết vụ án: Nguyên đơn xin ly hôn và xin nuôi con chung, không yêu cầu Bị đơn cấp dưỡng. Tài sản chung và nợ chung không yêu cầu Tòa án giải quyết. Đề nghị HĐXX chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, lời trình bày và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Căn cứ vào đơn khởi kiện và các tài liệu chứng cứ kèm theo, xác định quan hệ pháp luật tranh chấp của vụ án là: “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” được quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự; thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang- Tháp Chàm theo quy định tại khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[1.2] Tại phiên tòa, Bị đơn tiếp tục vắng mặt dù đã được tống đạt hợp lệ. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt Bị đơn.

[2] Về nội dung:

Xét yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn bà Phan Thị Ngọc Th, HĐXX thấy rằng:

[2.1] Quan hệ hôn nhân giữa bà Phan Thị Ngọc Th và ông Lê Quang Hải  được xác lập trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Đây là hôn nhân hợp pháp.

[2.2] Tại phiên tòa, bà Th giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn ông Â. Nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn do tính tình vợ chồng không hợp, ông  ham chơi, không chăm lo vợ con. Xét thấy, mâu thuẫn vợ chồng ông bà phát sinh và kéo dài trong thời gian rất dài. Sau khi bỏ đi, năm 2019 bà Th đã quay về chung sống để vợ chồng hàn gắn tình cảm, tuy nhiên tình trạng hôn nhân của ông bà đến nay vẫn không cải thiện được. Chứng tỏ, mâu thuẫn của vợ chồng hiện nay đã trầm trọng. Mặc dù, ông  mong muốn vợ chồng đoàn tụ nhưng trong quá trình giải quyết vụ án, ông không đến Tòa tham gia hòa giải, xét xử... cho thấy ông  có thái độ bỏ mặc, không có thiện chí hàn gắn.

Nhận thấy, vợ chồng ông bà đã ly thân một thời gian dài, không quan tâm đến nhau, làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của Nguyên đơn; không chấp nhận yêu cầu đoàn tụ của Bị đơn.

[2.3] Về giao người trực tiếp nuôi con:

Đối với con chung tên Lê Ngọc Bảo U, sinh ngày 04/3/2015. Xét thấy, từ khi vợ chồng không còn sống chung, bà Th là người trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con, sức khỏe cũng như việc học tập của con đều được đảm bảo; hiện trẻ Bảo U đang sống ổn định với mẹ; hơn nữa bà Th có nghề nghiệp, có thu nhập ổn định. Để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu được trực tiếp nuôi con của Nguyên đơn; không chấp nhận yêu cầu được trực tiếp nuôi con của Bị đơn là có căn cứ, phù hợp với khoản 2 Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình.

[2.4] Xét ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, phù hợp với những nhận định trên, nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; Khoản 1 Điều 56, các điều 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình; Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn bà Phan Thị Ngọc Th.

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Phan Thị Ngọc Th được ly hôn ông Lê Quang Hải Â.

2. Về giao người trực tiếp nuôi con: Bà Phan Thị Ngọc Th được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Lê Ngọc Bảo U, sinh ngày 04/3/2015.

Hai bên đều có quyền và nghĩa vụ như nhau đối với con chung, không ai được ngăn cản việc thăm nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chung.

3. Về án phí: Bà Phan Thị Ngọc Th phải chịu 300.000 đồng ( Ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng ( Ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu số 0022926 ngày 13/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phan Rang- Tháp Chàm. Bà Phan Thị Ngọc Th đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Án xử công khai, sơ thẩm, có mặt Nguyên đơn, quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; riêng Bị đơn vắng mặt, quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.

Quyết định này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

156
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 24/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:24/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Rang Tháp Chàm - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về