Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 19/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIÊN LÃNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 19/2022/HNGĐ-ST NGÀY 31/03/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 31 tháng 3 năm 2022, tại Toà án nhân dân huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 05/2022/TLST- HNGĐ ngày 06 tháng 01 năm 2022 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 07 tháng 3 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 14/2022/QĐST-HNGĐ ngày 23 tháng 3 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 19xx; nơi cư trú: Thôn H, xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng, vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Vũ Văn L, sinh năm 19xx; nơi cư trú: Thôn H, xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, bản tự khai, nguyên đơn là chị Nguyễn Thị H trình bày:

Chị H và anh Vũ Văn L kết hôn với nhau tự nguyện, có đăng ký kết hôn với nhau tại Uỷ ban nhân dân xã T ngày 30/12/2005. Anh chị chung sống được 03 năm thì anh L do xảy ra mâu thuẫn với bố anh L nên trong lúc không làm chủ được hành vi của mình, anh L đã gây ra cái chết cho bố anh. Anh L đã bị Toà án xử 13 năm tù về hành vi của mình. Quá trình anh L chấp hành án, chị H đến thăm anh L thì vợ chồng xảy ra mâu thuẫn, cãi nhau. Xét thấy, vợ chồng xảy ra mâu thuẫn, hôn nhân không hạnh phúc, chị H đã bỏ về nhà mẹ đẻ sinh sống, từ đó đến nay không về nhà. Anh chị sống ly thân nhau từ đó đến nay, không quan tâm đến nhau. Năm 2017, anh L chấp hành xong án phạt tù trở về địa phương sinh sống nhưng vợ chồng chị H cũng không về đoàn tụ với nhau. Nay nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, anh chị không thể đoàn tụ, chị H yêu cầu được ly hôn anh L.

Anh chị có 01 con chung là Vũ Văn H, sinh ngày 01/4/2007. Kể từ khi chị H bỏ nhà đi, con chung do gia đình anh L trực tiếp nuôi dưỡng. Do vậy khi ly hôn, chị H đề nghị Toà án giao con cho anh L trực tiếp nuôi dưỡng; việc cấp dưỡng cho con, chị H xin tự thoả thuận với anh L, không yêu cầu Toà án giải quyết. Anh chị không có tài sản chung, không yêu cầu Toà án giải quyết Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần tống đạt các văn bản tố tụng, yêu cầu anh L giao nộp bản tự khai và các tài liệu, chứng cứ có liên quan đến việc giải quyết vụ án và triệu tập anh L đến làm việc nhưng anh L không thực hiện.

Tài liệu xác minh tại địa phương thể hiện: Chị H và anh L có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã T theo quy định pháp luật. Anh chị chung sống được 03 năm, thì anh L bị xét xử về tội Giết người và phải chấp hành án phạt 13 năm tù. Khoảng 01 năm sau khi anh L đi chấp hành án, chị H phát sinh quan hệ tình cảm với người đàn ông khác và bỏ nhà đi từ đó không về. Hiện anh L đã chấp hành xong án phạt tù trở về địa phương sinh sống nhưng chị H cũng không về đoàn tụ với anh L. Anh chị có 01 con chung hiện do gia đình anh L chăm sóc, nuôi dưỡng, chị H hiện đã lập gia đình với người đàn ông khác và đã có con riêng.

Tại phiên toà, nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt và giữ nguyên yêu cầu khởi kiện; bị đơn vắng mặt tại phiên toà lần thứ hai không có lý do, không có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Thẩm phán đã thụ lý vụ án, thu thập chứng cứ, thông báo về việc thu thập được chứng cứ; mở phiên họp, hoà giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử đúng quy định về thẩm quyền, thời hạn, trình tự, thủ tục tố tụng; phiên toà được mở đúng thời hạn, Hội đồng xét xử thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ theo quy định tại các điều 70, 71 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần, đã tống đạt các tài liệu, thông báo, quyết định của Tòa án nhưng vẫn cố tình trốn tránh, không trình bày quan điểm của mình về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, vắng mặt tại phiên tòa không có lý do là thực hiện chưa đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 70, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án: Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 91, khoản 1 Điều 96, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 1, 3 Điều 228, Điều 266, Điều 271 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Xử cho chị Nguyễn Thị H được ly hôn anh Vũ Văn L; giao con Phạm Tuấn Anh, sinh ngày 17/8/2011 cho anh L trực tiếp nuôi, giao con Vũ Văn H, sinh ngày 01/4/2007 cho anh L trực tiếp nuôi đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Về việc cấp dưỡng cho con và tài sản chung: Do anh chị không yêu cầu nên không xem xét giải quyết. Chị H là nguyên đơn nên phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về tố tụng:

[1] Căn cứ yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị H thì quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án là Ly hôn, tranh chấp về nuôi con; anh Vũ Văn L là bị đơn, hiện đang cư trú tại: Thôn H, xã T, huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tiên Lãng theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn (anh L) đã được Tòa án triệu tập nhiều lần nhưng không chấp hành triệu tập của Tòa án. Tòa án đã thực hiện cấp, tống đạt, thông báo hợp lệ văn bản tố tụng cho anh L; sao gửi đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo, tạo điều kiện cho anh L thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật. Việc anh L không có mặt theo giấy triệu tập, không giao nộp đầy đủ các tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án là tự tự mình từ bỏ các quyền và không chấp hành các nghĩa vụ của đương sự được quy định tại Điều 70, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Căn cứ khoản 4 Điều 91, khoản 1 Điều 96 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ do đương sự giao nộp và do Tòa án thu thập được để giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

[3] Nguyên đơn (chị H) đã được Tòa án triệu tập hợp lệ, vắng mặt tại phiên toà và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn (anh L) đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham gia phiên tòa, nhưng vẫn vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Căn cứ khoản 2 Điều 227 và khoản 1, 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt chị H, anh L.

- Về nội dung:

[4] Quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị H và anh Vũ Văn L được xác lập từ ngày 30/12/2005 là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng hoà thuận được 03 năm thì anh L bị xét xử về tội Giết người và phải chấp hành án phạt 13 năm tù. Trong thời gian anh L chấp hành án tù, vợ chồng xảy ra mâu thuẫn nên chị H đã bỏ nhà đi từ đó đến nay không về. Anh chị đã sống ly thân nhiều năm nay (từ năm 2008 đến nay), không quan tâm đến nhau. Như vậy, có đủ căn cứ xác định, tình trạng hôn nhân của anh chị đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được; yêu cầu ly hôn của chị H là có căn cứ, phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình nên cần được chấp nhận, xử cho chị H được ly hôn anh L.

[5] Về con chung: Anh chị có 01 con chung là Vũ Văn H, sinh ngày 01/4/2007. Chị H có nguyện vọng giao con chung cho anh L trực tiếp nuôi dưỡng; cháu H đã trên 07 tuổi và có nguyện vọng ở với bố. Xét thấy, yêu cầu của chị H giao con cho anh L trực tiếp nuôi dưỡng sau khi ly hôn phù hợp với nguyện vọng cháu H. Căn cứ các khoản 2, 3 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị H, giao con Vũ Văn H cho anh H trực tiếp nuôi đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Việc cấp dưỡng cho con, anh chị tự thoả thuận, không yêu cầu Toà án giải quyết nên không xem xét, giải quyết.

[6] Về tài sản chung: Chị H xác nhận anh chị không có tài sản chung, không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[7] Về án phí: Chị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56; Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 91, khoản 1 Điều 96, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 1, 3 Điều 228, Điều 266, Điều 271 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án, Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị H:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị H được ly hôn anh Vũ Văn L.

2. Về con chung: Giao con Vũ Văn H, sinh ngày 01 tháng 4 năm 2007 cho anh Vũ Văn L trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Không giải quyết vấn đề cấp dưỡng cho con do các đương sự không yêu cầu.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung: Không giải quyết do các đương sự không yêu cầu.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị H phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí ly hôn sơ thẩm. Chị H đã nộp đủ 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng tiền tạm ứng án phí theo Biên lai thu số 0006116 ngày 06 tháng 01 năm 2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tiên Lãng.

Chị H có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Anh L vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 của Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

136
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 19/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:19/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiên Lãng - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về