Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 17/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN BIÊN, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 17/2022/HNGĐ-ST NGÀY 16/05/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 16 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 151/2021/TLST-HNGĐ ngày 24 tháng 12 năm 2021 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 41/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 31 tháng 3 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 33/2021/QĐST-HNGĐ ngày 26 tháng 4 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Thị Đà N, sinh năm 1988 (có mặt);

2. Bị đơn: Anh Tân Thành X, sinh năm 1988 (vắng mặt);

Cùng địa chỉ: Kp 5, thị trấn TB, huyện AB, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Trong đơn khởi kiện ngày 24/02/2020 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Thị Đà N trình bày và yêu cầu như sau:

Chị và anh Tân Thành X chung sống với nhau vào năm 2009, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân thị trấn TB cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 18/9/2009. Quá trình chung sống chị và anh Tân Thành X có 02 người con chung tên Tân Thành H, sinh ngày 13/12/2009 và Tân Thị Ng, sinh ngày 08/5/2014 hiện nay Tân Thành H đang chung sống với chị, còn Tân Thị Ng đang chung sống với anh Tân Thành X; về tài sản chung, chị và anh Tân Thành X không có tranh chấp tài sản chung mà để chị và anh Tân Thành X tự thỏa thuận, về nợ chị và anh Tân Thành X không có nợ người khác và người khác không có nợ anh chị. Thời gian chung sống, chị và anh Tân Thành X sống không hạnh phúc, anh Tân Thành X thường xuyên đi ăn nhậu không lo làm ăn, không quan tâm đến vợ con, có mối quan hệ với người phụ nữ khác, chị khuyên ngăn thì anh chị cự cải nhau đến nay anh Tân Thành X không thay đổi, từ tháng 4/2021 đến nay chị và anh Tân Thành X sống ly thân với nhau. Chị thấy, chị và anh Tân Thành X không còn tình cảm vợ chồng, chị yêu cầu Tòa giải quyết như sau: Về quan hệ hôn nhận, chị yêu cầu được ly hôn với anh Tân Thành X. Về quan hệ con chung, khi ly hôn chị yêu cầu được nuôi con chung tên Tân Thành H, sinh ngày 13/12/2009 đến tròn 18 tuổi tự lao động sinh sống được theo nguyện vọng của Tân Thành H; chị đồng ý giao con chung tên Tân Thị Ng, sinh ngày 08/5/2014 cho anh Tân Thành X tiếp tục nuôi dưỡng đến tròn 18 tuổi tự lao động sinh sống được theo nguyện vọng của Tân Thị Ng. Về tài sản chung và nợ, chị và anh Tân Thành X tự thỏa thuận về tài sản chung, chị cam kết không có nợ và chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tại văn bản trình bày nguyện vọng ngày 29/12/2021, Tân Thành H trình bày:

Tân Thành H con của chị Thị Đà N và anh Tân Thành X. Từ khi cha và mẹ Tân Thành H không còn sống chung với nhau, Tân Thành H sống chung với mẹ là chị Thị Đà N, tại Kp 5, thị trấn TB, huyện AB, tỉnh Kiên Giang, nếu cha mẹ của Tân Thành H ly hôn thì Tân Thành H có nguyện vọng chung sống với với mẹ là chị Thị Đà N.

* Tại văn bản trình bày nguyện vọng ngày 29/12/2021, Tân Thị Ng trình bày:

Tân Thị Ng con của chị Thị Đà N và anh Tân Thành X. Từ khi cha và mẹ Tân Thị Ng không còn sống chung với nhau, Tân Thị Ng sống chung với cha là anh Tân Thành X, tại Kp 5, thị trấn TB, huyện AB, tỉnh Kiên Giang, nếu cha mẹ của Tân Thị Ng ly hôn thì Tân Thị Ng có nguyện vọng chung sống với cha là anh Tân Thành X.

* Tại biên bản xác minh ngày 28/12/2021, về nguyên nhân mâu thuẫn và tình trạng hôn nhân:

Anh Tân Thành X, cư trú tại Kp 5, thị trấn TB, huyện AB, tỉnh Kiên Giang hiện nay vắng mặt ở nhà và ở địa phương, khi đi anh Tân Thành X không cung cấp địa chỉ mới ở đâu, làm gì. Chị Thị Đà N và anh Tân Thành X chung sống với nhau một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, thường xuyên cự cải nhau, sống không hạnh phúc, chị Thị Đà N và anh Tân Thành X có 02 người con chung, hiện nay các con chung của chị Thị Đà N và anh Tân Thành X chung sống với ai thì không nắm rõ.

* Bị đơn anh Tân Thành X: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng hợp lệ cho anh Tân Thành X nhưng anh không có ý kiến gì và cũng không cung cấp tài liệu, chứng cứ gì đối với yêu cầu khởi kiện ly hôn và tranh chấp về nuôi con của chị Thị Đà N nên Toà án tiến hành giải quyết vụ án theo thủ tục chung.

* Tài liệu, chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án gồm: Giấy chứng minh nhân dân Thị Đà N và Sổ hộ khẩu; Giấy chứng minh nhân dân Tân Thành X; Giấy chứng nhận kết hôn Thị Đà N và Tân Thành X; Giấy khai sinh Tân Thành H và Tân Thị Ng; Biên bản xác minh ngày 28/12/2021 của Tòa án nhân dân huyện An Biên; 02 Văn bản trình bày nguyện vọng ngày 29/12/2021 của Tân Thành H và Tân Thị Ng.

* Tại phiên tòa:

Nguyên đơn chị Thị Đà N yêu cầu được ly hôn với anh Tân Thành X. Về quan hệ con chung, khi ly hôn chị yêu cầu được nuôi dưỡng người con chung tên Tân Thành H, sinh ngày 13/12/2009 đến tròn 18 tuổi tự lao động sinh sống được theo nguyện vọng của Tân Thành H, chị đồng ý giao người con chung tên Tân Thị Ng, sinh ngày 08/5/2014 cho anh Tân Thành X tiếp tục nuôi dưỡng đến tròn 18 tuổi tự lao động sinh sống được theo nguyện vọng của Tân Thị Ng, chị không cấp dưỡng nuôi con và không yêu cầu cầu dưỡng nuôi con. Về tài sản chung và nợ, chị và anh Tân Thành X không có tài sản chung, không tranh chấp, chị cam kết chị và anh Tân Thành X không có nợ người khác và người khác không có nợ anh chị nên chị không yêu cầu giải quyết.

Bị đơn anh Tân Thành X vắng mặt đến lần thứ hai không có lý do.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm:

- Về thủ tục tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án cho đến khi đưa vụ án ra xét xử và tại phiên tòa hôm nay, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án thực hiện các thủ tục tố tụng từ khi thụ lý vụ án đến khi xét xử, xác định mối quan hệ pháp luật, đưa tư cách đương sự tham gia tố tụng, về thu thập tài liệu, chứng cứ chứng minh, tống đạt các văn bản tố tụng và chuyển hồ sơ vụ án cho Viện Kiểm sát đúng trình tự thủ tục và thời gian quy định tại khoản 1 Điều 35, Điều 48, Điều 51, Điều 68, các Điều 208, 209, 210, 211, 239 và Điều 247 của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Pháp luật tố tụng dân sự. Bị đơn vắng mặt đến lần thứ hai không có lý do đề nghị xét xử vắng mặt bị đơn theo khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung vụ án: Xét đơn khởi kiện của chị Thị Đà N yêu cầu được ly hôn với anh Tân Thành X và yêu cầu được nuôi dưỡng các con theo nguyện vọng của các con anh chị là có căn cứ chấp nhận nên đền nghị Hội đồng xét xử cho chị Thị Đà N được ly hôn với anh Tân Thành X. Về quan hệ con chung, khi anh chị ly hôn giao người con chung của anh chị tên Tân Thành H, sinh ngày 13/12/2009 cho chị Thị Đà N được tiếp tục nuôi dưỡng theo nguyện vọng của Tân Thành H, giao người con chung của anh chị tên Tân Thị Ng, sinh ngày 08/5/2014 cho anh Tân Thành X tiếp tục nuôi dưỡng theo nguyện vọng của Tân Thị Ng. Về cấp dưỡng nuôi con, chị Thị Đà N và anh Tân Thành X không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét; về tài sản chung và nợ, chị Thị Đà N tự xác định không có, không yêu cầu giải quyết đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Nguyên đơn chị Thị Đà N yêu cầu được ly hôn với bị đơn anh Tân Thành X và nuôi con. Nguyên đơn và bị đơn đều có nơi cư trú tại Kp 5, thị trấn TB, huyện AB, tỉnh Kiên Giang nên xác định đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về thủ tục tố tụng: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh Tân Thành X biết và ấn định thời gian để anh có ý kiến về việc chị Thị Đà N khởi kiện đối với anh về ly hôn và nuôi con nhưng anh không có ý kiến gì và cũng không cung cấp tài liệu, chứng cứ gì để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Toà án tổ chức và thông báo cho các bên đương sự để tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng anh Tân Thành X vắng mặt đến lần thứ hai không có lý do. Như vậy, đây là thuộc trường hợp không tiến hành hoà giải được theo quy định tại Điều 207 của Bộ luật tố tụng dân sự nên Toà án quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục chung và tống đạt quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa cho anh Tân Thành X nhưng anh vẫn cố tình vắng mặt đến lần thứ hai không có lý do. Đồng thời, tại phiên toà lần thứ hai chị Thị Đà N không yêu cầu hoãn phiên toà. Vì vậy, Toà án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt anh Tân Thành X theo quy định tại khoản 2 Điều 227, điểm b khoản 1 Điều 238 và Điều 241 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về nội dung: Xét về quan hệ hôn nhân, chị Thị Đà N và anh Tân Thành X chung sống với nhau vào năm 2009, có đăng ký kết hôn tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền (Ủy ban nhân dân thị trấn TB là nơi cư trú của anh chị) và được cấp giấy chứng nhận kết hôn số: 16, quyển số 02 ngày 18/9/2009, anh chị đảm bảo các điều kiện kết hôn khác theo quy định của pháp luật là quan hệ hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận theo quy định tại Điều 11 của Luật hôn nhân và gia đình 2000 nay là Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình.

Xét khởi kiện của chị Thị Đà N được ly hôn với anh Tân Thành X, thời gian chị và anh Tân Thành X sống không hạnh phúc đến năm 2021 thì phát sinh mâu thuẫn, anh Tân Thành X thường xuyên đi ăn chơi, không lo làm ăn và quan hệ với người phụ nữ khác, chị khuyên ngăn nhưng anh Tân Thành X không thay đổi, chị và anh Tân Thành X sống ly thân với nhau từ tháng 4 năm 2021 đến nay. Chị thấy, chị và anh Tân Thành X không còn tình cảm vợ chồng, chị yêu cầu được ly hôn với anh Tân Thành X nhưng anh Tân Thành X không có ý kiến yêu cầu gì, không quan tâm đến việc chị Thị Đà N yêu cầu ly hôn với anh là vi phạm nghĩa vụ giữa vợ chồng thời gian dài, vợ chồng không chăm sóc, lo lắng lẫn nhau mà anh chị không có biện pháp hàn gắn để chung sống với nhau nên hôn nhân của anh chị đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay chị Thị Đà N cương quyết yêu cầu được ly hôn với anh Tân Thành X. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị Kiểm sát viên và yêu cầu khởi kiện của chị Trang, cho chị Thị Đà N được ly hôn với anh Tân Thành X là phù hợp quy định tại khoản 1 Điều 51, Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.

Về quan hệ con chung, chị Thị Đà N và anh Tân Thành X có 02 người con chung tên Tân Thành H, sinh ngày 13/12/2009 và Tân Thị Ng, sinh ngày 08/5/2014 hiện nay Tân Thành H đang chung sống với chị, còn Tân Thị Ng đang chung sống với anh Tân Thành X. Khi ly hôn chị Thị Đà N yêu cầu được nuôi dưỡng người con chung tên Tân Thành H, sinh ngày 13/12/2009 theo nguyện vọng của Tân Thành H, chị đồng ý giao người con chung tên Tân Thị Ng, sinh ngày 08/5/2014 cho anh Tân Thành X tiếp tục nuôi dưỡng theo nguyện vọng của Tân Thị Ng; anh Tân Thành X không có ý kiến gì khác, đồng thời con chung của anh chị từ khi anh chị ly thân đến nay Tân Thành H chung sống với chị Thị Đà N, còn Tân Thị Ng đang chung sống với anh Tân Thành X, thích nghi với cuộc sống hiện tại và Tân Thành H có nguyện vọng chung sống với chị Thị Đà N, Tân Thị Ng có nguyện vọng chung sống với anh Tân Thành X. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên, sự tự nguyện, yêu cầu của chị Thị Đà N và nguyện vọng của các con anh chị, giao người con chung của anh chị tên Tân Thành H, sinh ngày 13/12/2009 cho chị Thị Đà N được tiếp tục nuôi dưỡng đến tròn 18 tuổi tự lao động sinh sống được theo nguyện vọng của Tân Thành H và giao người con chung của anh chị tên Tân Thị Ng, sinh ngày 08/5/2014 cho anh Tân Thành X tiếp tục nuôi dưỡng đến tròn 18 tuổi tự lao động sinh sống được theo nguyện vọng của Tân Thị Ng là phù hợp quy định tại khoản 2 Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình.

Về cấp dưỡng nuôi con, chị Thị Đà N và anh Tân Thành X không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét.

Về tài sản chung và nợ, chị Thị Đà N tự xác định, anh chị không có tài sản chung, không tranh chấp, chị cam kết chị và anh Tân Thành X không có nợ người khác, người khác không có nợ anh chị và chị không yêu cầu giải quyết nên không xem xét. Nếu sau này có phát sinh chia tài sản chung và nợ thì được xem xét giải quyết bằng vụ kiện khác.

[4] Về án phí, nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn không phụ thuộc vào việc Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu nhưng được trừ vào số tiền đã tạm ứng án phí theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự, điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 207, khoản 2 Điều 227, điểm b khoản 1 Điều 238, Điều 241, Điều 266 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ vào Điều 9, khoản 1 Điều 51, Điều 56, khoản 2 Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTV QH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Thị Đà N được ly hôn với anh Tân Thành X.

2. Về quan hệ con chung: Giao người con chung của anh chị tên Tân Thành H, sinh ngày 13/12/2009 cho chị Thị Đà N được tiếp tục nuôi dưỡng đến tròn 18 tuổi tự lao động sinh sống được theo nguyện vọng của Tân Thành H và giao người con chung của anh chị tên Tân Thị Ng, sinh ngày 08/5/2014 cho anh Tân Thành X tiếp tục nuôi dưỡng đến tròn 18 tuổi tự lao động sinh sống được theo nguyện vọng của Tân Thị Ng. Hiện nay Tân Thành H đang chung sống với chị Thị Đà N, Tân Thị Ng đang chung sống với anh Tân Thành X.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người không trực tiếp nuôi con.

3. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Thị Đà N và anh Tân Thành X không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét.

4. Về tài sản chung và nợ: Chị Thị Đà N tự xác định, chị và anh Tân Thành X không có tài sản chung, không tranh chấp, chị Thị Đà N cam kết anh chị không có nợ người khác, người khác không có nợ anh chị và chị không yêu cầu giải quyết nên không xem xét. Nếu sau này có phát sinh chia tài sản chung và nợ thì được xem xét giải quyết bằng vụ kiện khác.

5. Về án phí: Buộc chị Thị Đà N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm ly hôn là 300.000 đồng, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng đã nộp theo biên lai thu số 0004625 ngày 24 tháng 12 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang. Chị Thị Đà N đã nộp xong án phí dân sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn luật định là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án 16/5/2022. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn luật định là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

53
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 17/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:17/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Biên - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về