Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 17/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIM THÀNH, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 17/2022/HNGĐ-ST NGÀY 27/05/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 27 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 32/2022/TLST-HNGĐ ngày 27 tháng 01 năm 2022 về “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 08/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 4 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 08/2022/QĐST-HNGĐ ngày 13 tháng 5 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Hồ Bá V, sinh năm 1985.

2. Bị đơn: Chị Phan Thị K, sinh năm 1985.

Đều trú tại địa chỉ: Thôn T, xã K, huyện K, tỉnh Hải Dương.

(Các đương sự đều có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

I. Theo đơn khởi kiện, được bổ sung bởi biên bản tự khai, biên bản lấy lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn trình bày:

Anh và chị Phan Thị K quen biết nhau tại thành phố Hồ Chí Minh; ban đầu chỉ có quan hệ bạn bè vì chị K vào thời điểm đó đã có người yêu, năm 2008 khi anh tổ chức sinh nhật cùng bạn bè thì có sử dụng rượu bia và giữa anh với chị K có quan hệ tình dục, sau đó chị K có thai và chị K cho rằng cái thai đó là của anh. Sau đó chị K bỏ người yêu và bắt ép anh cưới chị K nên anh và chị K đã tổ chức lễ cưới tại thành phố Hồ Chí Minh vào năm 2008, đến đầu năm 2009 thì anh và chị K đến UBND xã K đăng ký kết hôn. Do mẹ đẻ anh bị bệnh ung thư nên đến khoảng tháng 7/2009 thì anh và chị K về gia đình bố mẹ đẻ anh tại K sinh sống. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống không hạnh phúc thường phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống vì thực tế giữa anh và chị K chung sống với nhau không có tình cảm, tình yêu dành cho nhau dẫn đến thường xuyên xảy ra xích mích, cãi vã đánh chửi nhau vì chị K kiểm soát anh trong cuộc sống, không cho anh tiếp xúc, quan hệ với bạn bè; ghen tuông vô cớ xúc phạm làm ảnh hưởng tới uy tín, công việc cũng như cuộc sống của anh. Rất nhiều lần anh đã nhờ 2 bên gia đình K bảo nhưng chị K không thay đổi và ngày càng quá đáng hơn dẫn tới cuộc sống ngột ngạt, rất nhiều lần anh đã đến UBND xã K để làm đơn yêu cầu giải quyết ly hôn, nhưng mỗi lần như vậy thì chị K lại xé đơn, dọa tự tử và đe dọa giết anh nên anh quyết định yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn. Do biết ý định anh ly hôn nên vào tối ngày 26/12/2021, khi anh đang ngủ thì chị K gọi anh dậy và đổ xăng vào chân và ống quần của chị K dọa đốt, chị K gọi anh dậy nhưng anh không dậy nên đập cửa và bật lửa làm cháy ống quần ở chân, sau đó anh sơ cứu và đưa chị K lên Bệnh viện bỏng để điều trị. Thời gian gần đây chị K liên tục chửi bới anh và đập đầu vào tường dọa tự tử và đe dọa giết anh. Những sự việc này anh đều báo cáo với chính quyền địa phương, anh chị em trong gia đình anh đều biết rõ mâu thuẫn giữa vợ chồng, về phía bên gia đình chị K cũng biết cụ thể vì anh đã thông báo cho gia đình chị K biết mỗi khi xảy ra sự việc mâu thuẫn giữa vợ chồng anh.

Hiện nay anh và chị K vẫn sống chung một nhà nhưng vợ chồng không có tình cảm, anh đã nhiều lần ngủ riêng nhưng chị K gọi điện, đập cửa và các con anh ngủ cùng chị K, anh sợ chị K có hành vi làm ảnh hưởng đến tính mạng sức khỏe của các con nên vẫn phải ngủ cùng phòng với chị K, nhưng anh nằm dưới đất, chị K và các con ngủ trên giường; do chị K đang điều trị chân do bị bỏng khi dọa tự sát, anh vẫn phải nấu cơm phục vụ chị K nên không thể ăn riêng. Đến nay, anh xét thấy vợ chồng không thể tiếp tục chung sống nên anh đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị Phan Thị K.

2. Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là cháu Hồ Nhật N, sinh ngày 23/02/2009 và cháu Hồ Chí D, sinh ngày 08/9/2011. Hiện nay cả 02 cháu đều đang ở cùng với vợ chồng anh, khi ly hôn thì do chị K có tính cách thất thường, đe dọa giết các con để ép anh không được ly hôn nên anh không thể để chị K nuôi con, anh có nguyện vọng muốn được trực tiếp nuôi cả 02 con chung và yêu cầu chị K cấp dưỡng đối với mỗi con chung là 2.500.000đ/tháng cho đến khi mỗi cháu đủ 18 tuổi; nếu chị K muốn được nuôi cả 02 con chung và các cháu có nguyện vọng muốn được ở với mẹ thì anh cũng nhất trí giao cả 02 con cho chị K trực tiếp nuôi dưỡng và sẽ thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi đối với mỗi cháu 2.000.000đ/01 tháng cho đến khi mỗi cháu đủ 18 tuổi.

Anh trước đó làm công nhân tại khu công nghiệp Tràng Duệ, Hải Phòng; tuy nhiên vào tháng 12/2021 chị K đe dọa tự tử và bị bỏng thì anh phải nghỉ việc ở nhà để chăm sóc chị K, chưa đi làm, không có thu nhập gì. Chị K bị bỏng được Bảo hiểm hỗ trợ 80% chi phí điều trị, chi phí sinh hoạt của gia đình anh từ tháng 12/2021 đến nay từ khoản tiền tiết kiệm của gia đình và của các anh chị em trong gia đình anh hỗ trợ.

Chị K trước đó làm công nhân tại Khu công nghiệp Nomura, thành phố Hải Phòng, từ khi bị bỏng vào tháng 12/2021 cho đến nay thì vẫn nghỉ việc ở nhà; chưa được Bảo hiểm giải quyết chế độ.

3. Về tài sản chung: Khi khởi kiện anh Hồ Bá V có yêu cầu Tòa án phân chia tài sản chung vợ chồng khi ly hôn đối với các tài sản trên diện tích đất 226m2 mang tên anh tại thôn T, xã K, huyện K, tỉnh Hải Dương. Tuy nhiên, ngày 21/3/2022, anh Hồ Bá V có đơn đề nghị rút một phần yêu cầu khởi kiện về phân chia tài sản chung, vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện về ly hôn với chị Phan Thị K và giải quyết nuôi con chung khi ly hôn. Trong thời kỳ hôn nhân thì anh và chị K không có nợ chung nên anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

II. Quan điểm của bị đơn:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Hồ Bá V kết hôn trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu, đăng ký kết hôn tại UBND xã K vào năm 2009. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc đến tháng 10/2021 thì phát sinh mâu thuẫn do chị nghi ngờ anh V có quan hệ ngoại tình nên đã đổ xăng vào chân đốt, định tự tử để níu kéo anh V. Hiện tại chị đang điều trị bỏng, sức khỏe yếu, không thể tự chăm sóc cho bản thân và cũng không có điều kiện kinh tế để lo viện phí. Mâu thuẫn giữa chị và anh V chỉ là mâu thuẫn nhỏ, đề nghị Tòa án xem xét hoàn cảnh của chị để hòa giải vợ chồng đoàn tụ vì nếu ly hôn thì chị không có chỗ ở, không có người chăm sóc nên chị không đồng ý ly hôn và đề nghị Tòa án không chấp nhận yêu cầu khởi kiện ly hôn của anh V.

2. Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là cháu Hồ Nhật N, sinh ngày 23/02/2009 và cháu Hồ Chí D, sinh ngày 08/9/2011. Nếu vợ chồng ly hôn thì chị đề nghị giao cả 02 con chung cho anh V trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng vì hoàn cảnh của chị khó khăn, công việc không ổn định.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Vợ chồng tự thỏa thuận về tài sản, nếu không thỏa thuận được sẽ yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tòa án đã tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ về mâu thuẫn vợ chồng, về nuôi dưỡng con chung; cụ thể như sau:

- Xác minh tại UBND xã; Hội phụ nữ xã K và Trưởng thôn Thiên Đông: Anh Hồ Bá V và chị Phan Thị K đăng ký kết hôn tại UBND xã K năm 2009, trong quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống và do chị K có nghi ngờ anh V ngoại tình nên thường xuyên đe dọa tự tử. Mâu thuẫn giữa anh V, chị K đã được chính quyền hòa giải nhưng không thành.

- Anh Phan Văn Đông (anh trai chị K) khai: Chị K và anh V trong cuộc sống có mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, chị K nghi ngờ anh V ngoại tình nên dọa tự tử để anh V quay lại. Mâu thuẫn vợ chồng đã được hai bên gia đình K bảo nhưng anh V vẫn cương quyết ly hôn.

Tại phiên tòa - Nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện về việc ly hôn với chị Phan Thị K và giải quyết nuôi con chung. Anh V thừa nhận trong thời gian qua vợ chồng vẫn chung sống, ăn, ngủ cùng nhau và cách đây 02 ngày vẫn quan hệ tình cảm vợ chồng. Việc chăm sóc chị K điều trị bỏng và chăm sóc sinh hoạt cá nhân cho chị K vẫn chủ yếu do anh thực hiện, khi chị K bị bỏng anh cũng phải nghỉ việc ở nhà để chăm sóc.

- Bị đơn xác định nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng khoảng cuối năm 2021, xuất phát từ việc anh V có quan hệ ngoại tình nên không quan tâm đến gia đình. Do ghen tuông và muốn níu kéo tình cảm vợ chồng nên chị đã đổ xăng đốt và bị bỏng ở chân, hiện nay vẫn phải điều trị. Chị không đồng ý ly hôn vì mâu thuẫn vợ chồng không lớn, lý do anh V ly hôn do ngoại tình nên đề nghị Tòa án không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh V để vợ chồng đoàn tụ, nuôi dạy con. Hiện tại chị đi lại khó khăn, bố đẻ đã mất; mẹ đẻ già yếu, anh V vẫn luôn là người chăm sóc chị từ khi chị bị bỏng cho đến nay. Nếu ly hôn thì chị không có khả năng tự chăm sóc cho bản thân.

- Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:

Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến trước khi nghị án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân và Thư ký Toà án đã thực hiện đúng quy định pháp luật. Các đương sự đều chấp hành nghiêm chỉnh quy định của pháp luật và của Tòa án.

Về hướng giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 51 Luật hôn nhân và gia đình. Điều 227; Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Về quan hệ hôn nhân: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Hồ Bá V về việc yêu cầu ly hôn với chị Phan Thị K.

Về con chung: Do không chấp nhận yêu cầu khởi kiện ly hôn nên không đặt ra giải quyết.

Về tài sản chung, nợ chung vợ chồng: Đình chỉ việc giải quyết yêu cầu phân chia tài sản chung vợ chồng của anh Hồ Bá V do trong quá trình thu thập tài liệu, chứng cứ anh V đã rút yêu cầu khởi kiện về phân chia tài sản chung.

Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Hoàn trả án phí yêu cầu phân chia tài sản chung cho anh Hồ Bá V.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra công khai tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Đây là vụ án về “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn cư trú tại xã K, huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương nên thẩm quyền giải quyết vụ án thuộc Tòa án nhân dân huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Anh Hồ Bá V và chị Phan Thị K tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã K, huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương vào ngày 20/01/2009 nên quan hệ hôn nhân là hợp pháp.

[3] Căn cứ các tài liệu chứng cứ đã được thu thập trong quá trình giải quyết vụ án, xác định: Trong thời kỳ hôn nhân thì anh V và chị K chung sống hạnh phúc, đến cuối năm 2021 mới phát sinh mâu thuẫn do chị K nghi ngờ anh V ngoại tình dẫn đến đã đổ xăng vào chân đốt định tự tử để níu kéo tình cảm vợ chồng dẫn đến bị bỏng xăng. Bệnh viện bỏng Quốc gia xác định: “Chị Phan Thị K bỏng xăng 26% (3%) độ II, III nông – sâu, IV hai chân trên; bệnh nhân có hội chứng trầm cảm, có hành vi tự sát”. Các tài liệu đã thu thập thể hiện mâu thuẫn giữa vợ chồng không lớn, hiện tại vợ chồng vẫn duy trì cuộc sống chung: cùng chung sống, ăn ngủ cùng nhau, anh V vẫn chăm sóc chị K trong cuộc sống cũng như điều trị thương tích. Điều đó vẫn thể hiện vợ chồng vẫn còn tình thương yêu, quan tâm, chăm sóc lẫn nhau; không có cơ sở xác định mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, không thể tiếp tục chung sống. Tại phiên tòa anh V thừa nhận thời gian vừa qua và cách đây 02 ngày vẫn quan hệ vợ chồng với chị K. Mặt khác, hiện tại chị K vẫn đang điều trị vết bỏng nặng ở hai chân, nếu ly hôn thì chị không có chỗ ở, chưa thể lao động để có thu nhập nuôi sống bản thân và không thể tự lo cho việc sinh hoạt cá nhân cũng như điều trị thương tích nên không đảm bảo quyền lợi của người phụ nữ, có thể gây ảnh hưởng xấu đến tâm lý và việc điều trị thương tích của chị K. Vì vậy, việc chấp nhận yêu cầu khởi kiện ly hôn của anh V trong thời điểm hiện tại không phù hợp quy định của pháp luật cũng như đạo đức xã hội. Do vậy không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Hồ Bá V về việc ly hôn với chị Phan Thị K.

[4] Về con chung: Do yêu cầu khởi kiện ly hôn của anh Hồ Bá V không được chấp nhận nên không đặt ra giải quyết vấn đề con chung.

[5] Về tài sản chung, nợ chung vợ chồng: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu giải quyết ly hôn, con chung và phân chia tài sản chung vợ chồng khi ly hôn. Nhưng trước khi Tòa án mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai tài liệu chứng cứ đã tự nguyện rút yêu cầu về phân chia tài sản chung, bị đơn không có yêu cầu phản tố; do vậy sẽ đình chỉ việc giải quyết yêu cầu của Nguyên đơn đối với phân chia tài sản chung tại bản án này.

[6] Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí sơ thẩm ly hôn; án phí phân chia tài sản chung sẽ được hoàn trả do rút yêu cầu, theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Luật phí, lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

* Căn cứ: Điều 39 của Bộ luật dân sự. Điều 51 Luật hôn nhân gia đình. Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 48; Điều 217; Điều 218; Điều 219; khoản 1 Điều 227; khoản 2 Điều 273; Điều 147 Bộ Luật tố tụng dân sự. Luật phí và lệ phí. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

* Xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Hồ Bá V về việc ly hôn với chị Phan Thị K.

- Về con chung: Không đặt ra xem xét, giải quyết.

+ Về tài sản, nợ chung vợ chồng: Đình chỉ việc giải quyết yêu cầu phân chia tài sản chung vợ chồng của anh Hồ Bá V.

+ Về án ph : Anh Hồ Bá V phải chịu 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm, được đối trừ vào số tiền 8.800.000đ tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương theo Biên lai nộp tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2020/0002635 ngày 27/01/2022. Hoàn trả anh Hồ Bá V số tiền 8.500.000đ tiền tạm ứng án phí chia tài sản chung khi ly hôn còn lại.

Án xử công khai sơ thẩm; có mặt các đương sự. Đã báo cho các đương sự biết được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, tính từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

186
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 17/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:17/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kim Thành - Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về