Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 160/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THOẠI SƠN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 160/2022/HNGĐ-ST NGÀY 26/09/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 26 tháng 9 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 401/2022/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 7 năm 2022 về việc “ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 278/2022/QĐXXST- HNGĐ ngày 19 tháng 8 năm 2022 và quyết định hoãn phiên tòa số: 236/2022/QĐST-HNGĐ ngày 07 tháng 9 năm 2022 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Anh NĐ, sinh năm 1985;

Địa chỉ: khóm Đ, thị trấn N, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang. Có mặt.

* Bị đơn: Chị BĐ, sinh năm 1987;

Địa chỉ: khóm T, thị trấn E, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện ngày 21/6/2022, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn anh NĐ trình bày như sau: Anh và chị BĐ tìm hiểu quen biết nhau được 1 năm thì tiến tới kết hôn với nhau vào năm 2011, có tổ chức đám cưới, hôn nhân lần thứ nhất của cả hai. Anh chị có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn Óc Eo, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang ngày 16/4/2012. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2017 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn là do vợ anh không hòa hợp với gia đình bên chồng, hai vợ chồng không có tiếng nói chung nên cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc. Sau đó vợ anh đi làm ăn xa, thi thoảng có về thăm con và vợ chồng sống ly thân từ năm 2017 tới nay. Thời gian ly thân, chị BĐ không còn quan tâm chăm sóc anh, cũng không có thiện chí hàn gắn hạnh phúc gia đình. Nay nhận thấy cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được nên anh yêu cầu được ly hôn với chị BĐ; Về con chung: Vợ chồng anh có 01 con chung tên C, sinh ngày 08/8/2012, hiện nay đang sống với anh. Nếu được ly hôn, anh yêu cầu được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu chị BĐ cấp dưỡng nuôi con chung; Về NĐ sản chung: anh chị sẽ tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết; Về nợ chung: không có.

* Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã hai lần triệu tập hợp lệ chị BĐ đến để tiến hành hòa giải và triệu tập tham gia phiên toà nhưng chị BĐ vắng mặt không có lý do và không cung cấp lời khai.

* Ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa:

Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng: nguyên đơn đã thực hiện đúng, đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật. Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do nên đã từ bỏ quyền của mình.

Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ quy định tại các Điều 8, 9, 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 xem xét, quyết định. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh NĐ được ly hôn với chị BĐ. Về con chung: Giao cháu C, sinh ngày 08/8/2012 cho anh NĐ được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, chị BĐ không phải cấp dưỡng nuôi con; NĐ sản chung và nợ chung: không xem xét. Anh NĐ yêu cầu ly hôn nên phải nộp 300.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các NĐ liệu có trong hồ sơ vụ án, căn cứ vào lời trình bày của nguyên đơn, Hội đồng xét xử (HĐXX) nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Chị BĐ (là bị đơn trong vụ án) đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên toà xét xử lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt. Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 Toà án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt chị BĐ.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về hôn nhân: anh NĐ và chị BĐ kết hôn với nhau vào năm 2011, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn Óc Eo, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang ngày 16/4/2012 nên được pháp luật công nhận là vợ chồng hợp pháp theo quy định tại Điều 8 và Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình. Nay vợ chồng anh NĐ và chị BĐ phát sinh mâu thuẫn, anh NĐ xin ly hôn nên Toà án thụ lý, giải quyết là phù hợp theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình hôn nhân, anh NĐ trình bày do tính tình không phù hợp, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, vợ chồng không có tiếng nói chung, hai vợ chồng sống ly thân từ năm 2019 đến nay. Thời gian ly thân, chị BĐ không còn tới lui, thăm nom, chăm sóc anh, cũng như không có biện pháp để hàn gắn hạnh phúc. Tòa án đã triệu tập chị BĐ để tham gia phiên hòa giải nhưng chị BĐ cố tình vắng mặt và không trình bày ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện của anh NĐ thể hiện chị BĐ không muốn hàn gắn. Xét thấy, hôn nhân giữa anh NĐ và chị BĐ thực tế đã không còn tồn tại, mục đích hôn nhân không đạt được, nếu D trì cuộc hôn nhân này cũng không đem lại hạnh phúc cho cả hai. Do đó, nghĩ nên chấp nhận yêu cầu của anh NĐ được ly hôn với chị BĐ.

[2.2] Về con chung:

Anh NĐ xác định trong thời gian chung sống, vợ chồng anh chị có 01 con chung tên C, sinh ngày 08/8/2012, hiện nay đang sống với anh. Sau ly hôn, anh yêu cầu được chăm sóc, nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu chị BĐ phải cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy, cháu D hiện nay đang sống với anh NĐ, thời gian ly thân cháu C được anh NĐ chăm sóc tốt, phát triển bình thường và cháu D cũng có nguyện vọng được sống với anh NĐ. Xuất phát từ lợi ích mọi mặt của cháu D, để đảm bảo ổn định cuộc sống cho cháu, giúp cháu phát triển tốt về thể chất và tinh thần, HĐXX giao cháu D cho anh NĐ được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng theo quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

Về cấp dưỡng nuôi con là nghĩa vụ của người không trực tiếp nuôi con, tuy nhiên anh NĐ không yêu cầu chị BĐ phải cấp dưỡng nuôi con chung nên HĐXX không xem xét.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được quyền cản trở. Anh NĐ phải tạo điều kiện cho chị BĐ được thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung.

[2.3] Về quan hệ NĐ sản chung và nợ chung: anh NĐ không tranh chấp NĐ sản chung và nợ chung nên HĐXX không xem xét. Nếu sau này giữa anh NĐ và chị BĐ có phát sinh tranh chấp về NĐ sản chung và nợ chung sẽ được Tòa án thụ lý, giải quyết bằng vụ án khác.

[3] Lời phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa về nội dung giải quyết vụ án là phù hợp với quy định pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Anh NĐ phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí anh NĐ đã nộp.

Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, các Điều 147, 227, 228, 271 và 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Các Điều 8, 9, 56, 58, 81, 82, 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ Ban Thường Vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị NĐ.

- Về hôn nhân: Anh NĐ được ly hôn với chị BĐ.

(Giấy chứng nhận kết hôn số 21, ngày 16/4/2012 do Ủy ban nhân dân thị trấn Óc Eo, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang cấp cho anh NĐ và chị BĐ không còn giá trị pháp lý).

- Về con chung: Giao 01 con chung tên C, sinh ngày 08/08/2012 cho anh NĐ được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng.

Chị BĐ không phải cấp dưỡng nuôi con chung do anh NĐ không có yêu cầu.

Chị BĐ có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung mà không ai được cản trở.

Trên cơ sở lợi ích của con, theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, Toà án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

- Về NĐ sản chung và nợ chung: Anh NĐ không yêu cầu Tòa án giải quyết nên HĐXX không xem xét. Nếu sau này giữa anh NĐ và chị BĐ có phát sinh tranh chấp về NĐ sản chung và nợ chung sẽ được Tòa án thụ lý, giải quyết bằng vụ án khác.

- Về án phí sơ thẩm: Anh NĐ phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm không có giá ngạch là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0009364 ngày 07 tháng 7 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang.

Chị BĐ không phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm.

Anh NĐ được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Chị BĐ được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận hoặc bản án được niêm yết công khai./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

72
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 160/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:160/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thoại Sơn - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về