TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH B
BẢN ÁN 150/2022/HNGĐ-ST NGÀY 12/09/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Trong ngày 12/9/2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 58/2022/TLST-HNGĐ ngày 08/4/2022 về việc “Ly hôn, tranh chấp về con chung” Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 113/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 18/7/2022, Quyết định hoãn phiên tòa số: 109/2022/QĐST-HNGĐ ngày 18/8/2022 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Phạm Thị D - Sinh năm 1990 ( xin vắng mặt) Địa chỉ: thôn Đồng Nầm, xã Tân Quang, huyện Lục Ngạn, tỉnh B.
-Bị đơn: Anh Vi Văn K, sinh năm 1987 Vắng mặt Địa chỉ: thôn Đồng Nấm, xã Tân Quang, huyện Lục Ngạn, tỉnh B. Hiện đang ở nước ngoài không rõ địa chỉ.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai trong quá trình làm việc tại Tòa án, nguyên đơn là chị Phạm Thị D trình bày:
- Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Vi Văn K trước khi cưới có tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn ngày 05/11/2015 tại UBND xã Tân Quang, huyện Lục Ngạn, tỉnh B. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hòa thuận hạnh phúc ở thôn Đồng Nấm, xã Tân Quang. Tuy nhiên, trong quá trình chung sống vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn dẫn đến việc vợ chồng hay xảy ra bất đồng quan điểm sống thường xuyên cãi nhau, chị và anh K đã ly thân được 03 năm.
Nay xác định tình cảm không còn chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Vi Văn K.
- Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là cháu Vi Nhật Hoàng sinh ngày 02/9/2017. Ly hôn chị đề nghị được nuôi con chung. Về cấp dưỡng anh chị tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Về tài sản chung, nghĩa vụ chung về tài sản: Không có, không đề nghị Tòa án giải quyết.
* Bị đơn là anh K hiện đang lao động ở nước ngoài, không có địa chỉ cụ thể. Tòa án đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật đối với anh K đến nay không nhận được thông tin của anh K.
Tòa án đã xác minh thu thập chứng cứ thông qua bố đẻ của anh K là Vi Văn Sáng- sinh năm 1961. Địa chỉ: thôn Đồng Nấm, xã Tân Quang, huyện Lục Ngạn, tỉnh B, ông Sáng có quan điểm trình bày như sau:
Ông là bố đẻ của anh K, hiện nay anh K đang đi lao động tại nước ngoài và vẫn thường xuyên liên lạc về với gia đình. Về địa chỉ của anh K ở nước ngoài, ông không biết nên không cung cấp cho Tòa án được. Tòa án yêu cầu gia đình ông thông báo để anh K gửi quan điểm về thì gia đình ông từ chối thực hiện. Việc chị D xin ly hôn, anh K không trao đổi gì với gia đình ông nên ông không biết, ông không có thông tin gì cung cấp cho Tòa án được. Việc ly hôn là việc của anh chị, ông không có ý kiến gì. Vợ chồng anh K chị D có 01 con chung là cháu Vi Nhật Hoàng sinh ngày 02/9/2017. Ly hôn chị D đề nghị được nuôi con chung, gia đình ông đồng ý vì cháu vẫn do hai gia đình quan tâm chăm sóc. Anh K vẫn có trách nhiệm với con chung để cháu phát triển bình thường. Về tài sản chung, nghĩa vụ chung về tài sản: Không có * Tại phiên tòa sơ thẩm, chị D xin vắng mặt, không có quan điểm gì khác về yêu cầu khởi kiện xin ly hôn. Anh Vi Văn K vắng mặt không có lý do và không có quan điểm gì trình bày. Hội đồng xét xử tóm tắt nội dung vụ án, công bố các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.
* Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm:
- Việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký, nguyên đơn kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã được đảm bảo đúng quy định của pháp luật. Bị đơn không chấp hành quy định của pháp luật.
- Về nội dung: Căn cứ các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ xét thấy tình trạng mâu thuẫn của đương sự là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Đề nghị Hội đồng xét xử (sau đây viết tắt là HĐXX) căn cứ vào khoản 1, Điều 51; khoản 1, Điều 53; khoản 1, Điều 56-Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 giải quyết cho chị Phạm Thị D được ly hôn anh Vi Văn K. Về con chung: Giao con chung là cháu Vi Nhật Hoàng sinh ngày 02/9/2017 cho chị D trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Về cấp dưỡng không đặt ra xem xét giải quyết do chị không yêu cầu. Tài sản chung, công nợ: chị D không đề nghị nên không xem xét giải quyết. Về án phí: căn cứ khoản 4, Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a, khoản 5, Điều 27- Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội buộc chị Phạm Thị D phải chịu 300.000 đồng án phí sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được công bố tại phiên toà, quan điểm của đại diện Viện kiểm sát. Sau khi thảo luận và nghị án. Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về quan hệ pháp luật, thẩm quyền giải quyết vụ án: Chị Phạm Thị D là người Việt Nam, hiện đang sống và làm việc tại Việt Nam có đơn xin ly hôn và yêu cầu giải quyết nuôi con chung đối với anh Vi Văn K. Bị đơn anh K là người Việt Nam, có hộ khẩu thường trú tại thôn Đồng Nấm, xã Tân Quang, huyện Lục Ngạn, tỉnh B nhưng đang cư trú ở nước ngoài không có địa chỉ cụ thể. Căn cứ công văn số: 3989/QLXNC-P5 ngày 01/3/2022 của Cục quản lý xuất nhập cảnh - Bộ Công an thì anh K đã xuất cảnh ra nước ngoài ngày 08/3/2020, chưa thấy thông tin nhập cảnh về Việt Nam; không có thông tin địa chỉ nước đến, địa chỉ ở nước ngoài của anh K. Từ các nội dung trên, HĐXX xác định: về quan hệ pháp luật đây là vụ án “ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quy định tại khoản 1, Điều 28- Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; về thẩm quyền: do có đương sự ở nước ngoài nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh B, theo quy định tại khoản 2, Điều 123- Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 3, Điều 35; điểm c, khoản 1, Điều 37- Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[2]. Về sự vắng mặt của đương sự: Tại phiên tòa chị D vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt; anh Vi Văn K đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do. Tòa án đã niêm yết tống đạt, thông báo các văn bản tố tụng cho anh K theo quy định tại khoản 5, Điều 177; Điều 179 - Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. HĐXX thấy việc vắng mặt của các đương sự không ảnh hưởng quá trình giải quyết vụ án. Do vậy căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228- Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với chị D, anh K.
[3]. Về quan hệ hôn nhân:
Chị Phạm Thị D và anh Vi Văn K có tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn tại UBND xã Tân Quang, huyện Lục Ngạn, tỉnh B. Hội đồng xét xử xác định quan hệ hôn nhân giữa chị Phạm Thị D và anh K là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống phát sinh mâu thuẫn. Hiện chị Phạm Thị D và anh Vi Văn K mỗi người sống một nơi, xa cách về địa lý và không còn quan tâm, chia sẻ với nhau trong cuộc sống nữa. Theo quy định tại Điều 19 của Luật Hôn nhân và Gia đình thì vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình nhưng chị D và anh K đã không thực hiện nghĩa vụ vợ chồng theo như các quy định đã nêu ở trên. Như vậy, tình trạng mâu thuẫn vợ chồng giữa chị D và anh K đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do đó, HĐXX căn cứ khoản 1, Điều 51; khoản 1, Điều 53;
khoản 1, Điều 56 - Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 xử cho chị Phạm Thị D được ly hôn anh Vi Văn K.
[4]. Về con chung:
Chị Phạm Thị D và anh K có 01 con chung là cháu Vi Nhật Hoàng sinh ngày 02/9/2017. Chị D đề nghị được nuôi con chung. HĐXX thấy: Tại thời điểm Tòa án giải quyết vụ án anh K không có mặt ở tại địa phương nhưng vẫn thường xuyên liên lạc về với gia đình, không có địa chỉ cụ thể. Vì vậy để đảm bảo quyền lợi của con chung cần áp dụng Điều 81, Điều 82, Điều 83- Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, giao cho chị D được trực tiếp nuôi dưỡng, trông nom, chăm sóc, giáo dục con chung là cháu Vi Nhật Hoàng sinh ngày 02/9/2017.
Về cấp dưỡng nuôi con chung chị D không yêu cầu nên không đặt ra xem xét giải quyết.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở theo quy định tại Điều 82- Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
[5]. Về tài sản chung, nghĩa vụ chung về tài sản (công nợ): chị D không yêu cầu nên HĐXX không đặt ra xem xét.
[6]. Về án phí: Căn cứ quy định tại khoản 4, Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a, khoản 5, Điều 27- Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội, buộc chị Phạm Thị D phải chịu 300.000 đồng án phí sơ thẩm.
[7]. Quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 271; Điều 273 và khoản 2, Điều 479- Bộ luật Tố tụng dân sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 53; khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 84; khoản 2 Điều 123- Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 1 Điều 28; khoản 3 Điều 35; điểm c khoản 1 Điều 37; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2, Điều 227; khoản 3 Điều 228; điểm b khoản 1 Điều 238; Điều 271; Điều 273; khoản 2 Điều 479- Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; điểm a, khoản 5 điểm a khoản 6 Điều 27- Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án. Xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị D được ly hôn anh Vi Văn K.
2. Về con chung:
- Giao con chung là cháu Vi Nhật Hoàng sinh ngày 02/9/2017 cho chị Phạm Thị D nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục đến khi đủ 18 tuổi hoặc đến khi có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Về cấp dưỡng nuôi con chung không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.
- Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở theo quy định tại Điều 82- Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
3. Về án phí: Chị Phạm Thị D phải chịu 300.000 đồng án phí sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền 300.000 đồng đã nộp tạm ứng án phí sơ thẩm theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: 0010487 ngày 30/11/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Lục Ngạn, tỉnh B.
4. Về quyền kháng cáo:
- Anh Vi Văn K hiện đang cư trú ở nước ngoài, không có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 01 tháng (30 ngày) kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật.
- Chị Phạm Thị D cư trú tại Việt Nam, không có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2- Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7a, 7b và Điều 9- Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30- Luật thi hành án dân sự.
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 150/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 150/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bình Thuận |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 12/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về