Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 149/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 149/2021/HNGĐ-ST NGÀY 15/09/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 09 tháng 02 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 89/2021/TLST- HNGĐ ngày 21 tháng 6 năm 2021 về việc ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 204/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 12 tháng 8 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 232/2021/QĐST-HNGĐ ngày 30/8/2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Phạm Thị H, sinh năm 1982, nơi cư trú: Thôn Đ, xã Đ, huyện K, thành phố Hải Phòng; vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt;

- Bị đơn: Anh Bùi Đức L, sinh năm 1976, nơi ĐKHKTT: Thôn Đ, xã Đ, huyện K, thành phố Hải Phòng; nơi cư trú: Đài Loan (Trung Quốc); vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn ngày 08/6/2021 và bản tự khai, nguyên đơn chị Phạm Thị H trình bày:

Chị và anh Bùi Đức L kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã Đ, huyện K, thành phố Hải Phòng vào ngày 24/3/2004. Sau khi kết hôn chị H và anh L sống vui vẻ, hạnh phúc được khoảng 13 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Đến năm 2017, mâu thuẫn giữa chị và anh L trở nên trầm trọng nguyên nhân về kinh tế, về quan điểm sống, anh chị không tôn trọng nhau và thường xuyên xúc phạm lẫn nhau cùng với việc anh L đã đi lao động tại Đài Loan (Trung Quốc). Từ đó vợ chồng xa cách dẫn đến tình cảm có nhiều rạn nứt.

Đến đầu năm 2021, anh L sống chung với người phụ nữ khác như vợ chồng và thường xuyên gọi điện về chửi bới, xúc phạm chị. Anh L không còn quan tâm đến cuộc sống của gia đình, cũng không chu cấp cho con cái học hành. Xét thấy cuộc sống vợ chồng không còn như trước, cuộc sống chung không thể tiếp tục nên chị H đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được xin ly hôn với anh Bùi Đức L.

Về con chung: Chị và anh L có 02 con chung là Bùi Thị Thùy Tr, sinh năm 2001 và Bùi Đức Anh Qu, sinh ngày 03/3/2010. Cháu Tr đã đủ 18 tuổi nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết, cháu Qu hiện đang sống cùng chị và chị đề nghị được tiếp tục nhận nuôi cháu. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị H đề nghị được tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung và công nợ: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với anh Bùi Đức L: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng đã thông báo cho gia đình anh L cung cấp địa chỉ của anh L ở Đài Loan (Trung Quốc) và yêu cầu gia đình anh thông báo cho anh biết để gửi lời khai và cung cấp tài liệu, chứng cứ về Tòa án. Tòa án đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng ở nơi cư trú cuối cùng của anh L, tống đạt các văn bản tố tụng cho anh L thông qua gia đình anh L, gia đình anh L cũng đã thông báo cho anh L biết. Tuy nhiên, gia đình anh L vẫn không thực hiện yêu cầu cung cấp địa chỉ của anh L. Gia đình anh L cung cấp: Anh L vẫn thường xuyên liên lạc với gia đình qua điện thoại nhưng gia đình không biết địa chỉ cụ thể của anh L ở Đài Loan. Anh L đã được gia đình thông báo về việc chị H có đơn ly hôn với anh, hiện do dịch Covid nên anh không thể về Việt Nam giải quyết vụ án được nên anh đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, chị Phạm Thị H và anh Bùi Đức L đều vắng mặt. Chị H có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, anh L vắng mặt không có lý do mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai.

Phát biểu của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án: Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; nguyên đơn đã thực hiện đúng các quyền và ngh a vụ. Bị đơn anh Bùi Đức L vắng mặt tại phiên tòa không có lý do mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai. Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn là đúng theo quy định tại Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về quan điểm giải quyết vụ án: Chị H và anh L xây dựng gia đình trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã Đoàn Xá, huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng ngày 24/3/2004. Tuy nhiên, xét thấy mâu thuẫn vợ chồng anh chị đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị H. Về con chung: Anh chị có 02 con chung, cháu Tr, sinh năm 2001 đã đủ 18 tuổi nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết; sau ly hôn chị H đề nghị tiếp tục nuôi dưỡng cháu Bùi Đức Anh Qu, hiện tại cháu được chăm sóc, học tập phát triển bình thường nên đề nghị Hội đồng xét xử giao con chung là cháu Bùi Đức Anh Qu cho chị H tiếp tục nuôi dưỡng. Về tài sản chung và công nợ: Chị H không yêu cầu nên không giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi xem xét các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, xét thấy:

- Về tố tụng:

[1] Về thẩm quyền: Đây là vụ án ly hôn. Bị đơn anh Bùi Đức L hiện đang sinh sống tại Đài Loan (Trung Quốc), nguyên đơn chị Phạm Thị H sinh sống tại Hải Phòng, theo quy định tại khoản 1 Điều 28; khoản 3 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 37; điểm d khoản 1 Điều 469 của Bộ luật Tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng.

[2] Về sự vắng mặt của đương sự: Tại phiên tòa sơ thẩm, chị Phạm Thị H và anh Bùi Đức L đều vắng mặt, chị H có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Theo gia đình cung cấp, anh Bùi Đức L hiện đang sinh sống tại Đài Loan (Trung Quốc), anh L và gia đình không cung cấp được địa chỉ cụ thể của anh L; gia đình anh L xác nhận anh vẫn thường xuyên liên lạc về gia đình, gia đình cũng đã thông báo cho anh L biết việc chị H khởi kiện về ly hôn với anh L tại Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng. Tòa án đã tiến hành tống đạt văn bản tố tụng của Tòa án cho anh Bùi Đức L thông qua gia đình anh, gia đình anh cũng đã cam kết thông báo cho anh các văn bản tố tụng của Tòa án. Vì vậy, trường hợp này được coi là bị đơn cố tình giấu địa chỉ, căn cứ hướng dẫn tại Công văn số 253/TANDTC-PC ngày 26 tháng 11 năm 2018 của Tòa án nhân dân tối cao tiến hành xét xử vắng mặt anh Bùi Đức L.

- Về nội dung:

[3] Về quan hệ hôn nhân: Tài liệu có trong hồ sơ vụ án thể hiện, chị H và anh L kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã Đoàn Xá, huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng vào ngày 24/3/2004. Trong quá trình chung sống, thời gian đầu vợ chồng có hạnh phúc, nhưng sau đó thì phát sinh mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, cách sống không hòa hợp dẫn đến cãi vã. Mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng từ năm 2017, anh L sang Đài Loan lao động, từ đó vợ chồng xa cách và không còn quan tâm đến nhau, mặc dù đã được hai bên gia đình hòa giải nhưng không có kết quả. Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa chị H và anh L đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, không có khả năng đoàn tụ, cần áp dụng Điều 51, Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc ly hôn của chị Phạm Thị H.

[4] Về con chung: Chị H và anh L có 02 con chung là Bùi Thị Thùy Tr, sinh năm 2001 và Bùi Đức Anh Qu, sinh ngày 03/3/2010. Cháu Tr đã đủ 18 tuổi và đã tự lo được cho bản thân, chị H không đề nghị Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét. Cháu Qu hiện đang ở cùng chị H, được chị H chăm sóc đầy đủ và chị H đề nghị được tiếp tục nuôi dưỡng cháu. Xét thấy, anh L hiện không rõ nơi cư trú, cháu Qu đang được mẹ chăm sóc phát triển bình thường về tinh thần và thể chất, cần tiếp tục giao cháu Bùi Đức Anh Qu cho chị H nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng nuôi con: chị H đề nghị chị và anh L tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[5] Về tài sản chung và công nợ: Chị H không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không giải quyết.

[6] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị H là nguyên đơn nên phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Về quyền kháng cáo: Chị Phạm Thị H và anh Bùi Đức L được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 3 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 37;

khoản 4 Điều 147; Điều 227; Điều 228; Điều 238; Điều 273; điểm d khoản 1 Điều 469; Điều 479 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phạm Thị H.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị H được ly hôn với anh Bùi Đức L.

2. Về con chung: Giao con chung là cháu Bùi Đức Anh Qu, sinh ngày 03/3/2010 cho chị Phạm Thị H tiếp tục nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, ngh a vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị H và anh L tự thỏa thuận, không đề nghị Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

3. Về tài sản chung và công nợ: Chị H không đề nghị Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị H phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm. Được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng theo Biên lai số 0018955 ngày 21/6/2021 của Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng. Chị H đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo:

- Chị Phạm Thị H được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

- Anh Bùi Đức L được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Trường hợp Bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

196
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 149/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:149/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về