Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 14/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN C, TỈNH TRÀ VINH

BẢN ÁN 14/2022/HNGĐ-ST NGÀY 19/04/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 19 tháng 4 năm 2022 tại phòng xử án Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Trà Vinh tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 202/2022/TLST- HNGĐ, ngày 09 tháng 3 năm 2022 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 30/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 01 tháng 4 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Thạch Thị S, sinh năm 1993 (Có mặt). Địa chỉ: Ấp T, xã S, huyện C, tỉnh Trà Vinh.

2. Bị đơn: Anh Thạch T, sinh năm 1997 (Có mặt). Địa chỉ: Ấp H, xã M, huyện C, tỉnh Trà Vinh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 04/3/2022, các lời khai trong quá trình giải quyết và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Thạch Thị S trình bày: Năm 2017 chị và anh Thạch T quen biết tìm hiểu được một thời gian, được gia đình hai bên thống nhất cho tổ chức lễ cưới vào năm 2018, nhưng không đi đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, sau ngày cưới vợ chồng về sống chung gia đình bên chồng, thời gian đầu sống hạnh phúc và có 01 con chung, đến năm 2020 phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, anh T nhiều lần vô cớ chửi mắng và đánh đập chị do không còn khả năng chịu đựng được đến đầu năm 2021 chị bỏ về nhà cha mẹ ruột tại ấp T, xã S, huyện C không còn sống chung với anh T đến nay, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn với anh T, về con chung, chị yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi dưỡng Thạch Huỳnh Bảo A sinh ngày 01/5/2019, về cấp dưỡng nuôi, tài sản chung và số nợ phải thu, phải trả chị không tranh chấp và không yêu cầu giải quyết. Ngoài ra không có yêu cầu gì khác.

Tại bản tự khai ngày 29/3/2022, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, bị đơn anh Thạch T trình bày: Về hôn nhân, quá trình xác lập hôn nhân, không đi đăng ký kết hôn như chị S trình bày là đúng. Về mâu thuẫn vợ chồng quá trình chung sống bất đồng quan điểm về lối sống, chị S không chung thủy và tôn trọng anh, nhiều lần dùng điện thoại nhắn tin với người con trai khác, khi anh phát hiện và tra hỏi thì xảy ra tranh cãi, trong lúc nóng giận anh có đánh chị S 02 bạt tay, mâu thuẫn ngày thêm gay gắt chị S bỏ nhà ra đi, để lại con chung vừa hơn 06 tháng tuổi cho anh nuôi dưỡng, mà không thường xuyên tới lui chăm sóc, từ đó tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn được nên anh đồng ý ly hôn theo yêu cầu chị S, về con chung anh yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi dưỡng Thạch Huỳnh Bảo A, sinh ngày 01/5/2019. Về cấp dưỡng nuôi con, tài sản chung và số nợ phải thu, phải trả anh không tranh chấp, không yêu cầu giải quyết. Ngoài ra không có yêu cầu gì khác.

Những tình tiết các bên đương sự thống nhất với nhau:

- Chị S và anh T xác lập quan hệ hôn nhân, không có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Anh, chị thống nhất ly hôn với nhau.

- Về con chung, chị S và anh T chung sống có 01 người con tên Thạch Huỳnh Bảo A, sinh ngày 01/5/2019, hiện tại do anh T trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng. Tại phiên hòa giải và tại phiên tòa chị S và anh T tự nguyện thỏa thuận giao con chung là Thạch Huỳnh Bảo A cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng.

- Về cấp dưỡng nuôi con, tài sản chung vợ chồng và số nợ phải thu, phải trả: Chị S và anh T không tranh chấp, không khởi kiện.

- Về mâu thuẫn vợ chồng: Chị S và anh T thừa nhận trong thời gian chung sống có xảy ra mâu thuẫn, nhiều lần bất đồng quan điểm sống dẫn đến tranh cãi và đánh nhau, từ khoảng đầu năm 2021 đến nay anh chị không còn sống chung với nhau mà không có giải pháp hàn gắn đoàn tụ hạnh phúc gia đình.

Lời phát biểu của Kiểm sát viên: Về việc tuân theo pháp luật, thủ tục thụ lý hồ sơ vụ án, xác định quan hệ pháp luật, xác định người tham gia tố tụng, thành phần tham gia phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, thành phần Hội đồng xét xử đều đúng quy định pháp luật. Các văn bản tố tụng từ khi nhận đơn khởi kiện đến khi quyết định đưa vụ án ra xét xử đều tống đạt đầy đủ cho các đương sự nhận. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử đã tiến hành đúng trình tự thủ tục theo quy định Bộ luật tố tụng dân sự. Về giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn khởi kiện của chị S, tuyên xử không công nhận mối quan hệ hôn nhân giữa chị S và anh T là vợ chồng; giao con chung là Thạch Huỳnh Bảo A, sinh ngày 01/5/2019 cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng theo thỏa thuận của các bên đương sự, về cấp dưỡng nuôi con, tài sản chung vợ chồng và số nợ phải thu, phải trả do các đương sự không tranh chấp, không khởi kiện nên không đề nghị xem xét giải quyết, về án phí buộc chị S phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, ý kiến, yêu cầu của đương sự, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thủ tục tố tụng:

Về thẩm quyền giải quyết: Xét thấy bị đơn anh Thạch T đăng ký hộ khẩu thường trú và cư trú tại Ấp H, xã M, huyện C, tỉnh Trà Vinh. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Trà Vinh.

Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Xét thấy chị Thạch Thị S khởi kiện anh Thạch T yêu cầu giải quyết cho chị được ly hôn với anh T và yêu cầu nuôi con chung, ngoài ra chị không có yêu cầu gì khác. Căn cứ khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự, xác định quan hệ pháp luật là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”.

[2]. Về nội dung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

[2.1]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Thạch Thị S và anh Thạch T tự nguyện xác lập hôn nhân, sống chung với nhau không có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật nên việc chung sống với nhau như vợ chồng giữa chị S và anh T không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Trong quá trình chung sống chị S và anh T phát sinh nhiều mâu thuẫn, thường xuyên cãi vã lẫn nhau dẫn đến cuộc sống không hạnh phúc, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, tại phiên hòa giải cũng như tại phiên tòa chị S và anh T thống nhất ly hôn với nhau. Từ những cơ sở phân tích trên Hội đồng xét xử căn cứ theo quy định tại Điều 14 của Luật hôn nhân và gia đình không công nhận quan hệ hôn nhân giữa chị Thạch Thị S và anh Thạch T là vợ chồng.

[2.2]. Về nuôi con: Xét thấy chị S và anh T chung sống có 01 người con tên Thạch Huỳnh Bảo A, sinh ngày 01/5/2019. Từ khi chị S và anh T không còn sống chung từ đầu năm 2021 đến nay, con chung của anh chị được anh T trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng. Tại phiên tòa, chị S và anh T tự nguyện thỏa thuận giao con chung cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng. Căn cứ Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử giao Thạch Huỳnh Bảo A cho anh T được quyền trực tiếp trông nom, chăm sóc nuôi dưỡng khi ly hôn là phù hợp với sự thỏa thuận của các đương sự và quy định của pháp luật.

[2.3]. Về cấp dưỡng nuôi con, tài sản chung vợ chồng và số nợ phải thu, phải trả: Chị S và anh T không tranh chấp, không khởi kiện nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3]. Về án phí: Buộc chị Thạch Thị S nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn.

[4]. Xét quan điểm của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C như nhận định của Hội đồng xét xử và phù hợp với quy định pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 28, 35, 39, 147, 235, 266, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ các Điều 9, 14, 53, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của chị Thạch Thị S.

- Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận chị Thạch Thị S và anh Thạch T là vợ chồng.

- Về nuôi con: Anh Thạch T được quyền trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng con chung tên là Thạch Huỳnh Bảo A, sinh ngày 01/5/2019.

Chị Thạch Thị S có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được quyền ngăn cản. Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

- Về cấp dưỡng nuôi con, tài sản chung và số nợ phải thu phải trả: Chị S và anh T không tranh chấp, không khởi kiện nên không xem xét giải quyết.

- Về án phí: Buộc chị Thạch Thị S nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0008261 ngày 09 tháng 3 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, tỉnh Trà Vinh.

- Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

147
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 14/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:14/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trà Cú - Trà Vinh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về