TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỦY NGUYÊN - THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 132/2022/HNGĐ-ST NGÀY 27/07/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 27 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 135/2022/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 5 năm 2022 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 134/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 05 tháng 7 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 130/2022/QĐST-HNGĐ ngày 20 tháng 7 năm 2022, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Đỗ Thị Hải H; nơi cư trú: Thôn 7, xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng. Có mặt.
- Bị đơn: Anh Chu Văn H1; nơi cư trú: Thôn 7, xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Chị Đỗ Thị Hải H là nguyên đơn, khởi kiện với nội dung: Chị và anh Chu Văn H1 kết hôn trên cơ sở tự nguyện, được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng vào ngày 27 tháng 6 năm 2011. Sau lễ cưới, chị H về chung sống cùng anh H1 tại thôn 7, xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng ở cùng với bố mẹ đẻ của anh H1. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận đến cuối năm 2021 thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng trong sinh hoạt, anh H1 có biểu hiện không chung thủy trong quan hệ vợ chồng dẫn đến vợ chồng xảy ra cãi mắng xúc phạm nhau. Chị H đã về nhà bố mẹ đẻ ở, vợ chồng sống ly thân từ cuối năm 2021 cho đến nay. Tình cảm vợ chồng thờ ơ lạnh nhạt và không còn quan tâm đến nhau. Nay, chị Đỗ Thị Hải H nhận thấy không còn tình cảm và không thể về đoàn tụ với anh H1 nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Chu Văn H1. Chị và anh H1 có 03 con chung tên Chu Đỗ Hoài N, sinh ngày 12 tháng 7 năm 2011, Chu Đỗ Thanh T, sinh ngày 19 tháng 6 năm 2014 và Chu Đỗ Cẩm T1, sinh ngày 23 tháng 6 năm 2021. Khi ly hôn, chị H đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Chu Đỗ Cẩm T1 và để anh H1 được trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung tên Chu Đỗ Thanh T và Chu Đỗ Hoài N. Việc cấp dưỡng nuôi con do chị và anh H1 tự thỏa thuận, không đề nghị Tòa án giải quyết. Chị và anh H1 không có tài sản chung nên không đề nghị Tòa án giải quyết.
Anh Chu Văn H1 là bị đơn, đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng khác, song đến ngày mở phiên tòa anh H1 vẫn không có văn bản trình bày ý kiến về quan hệ hôn nhân, con chung và tài sản chung.
Tại phiên toà, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng như sau: Về thẩm quyền giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên đã tuân theo đúng quy định của pháp luật quy định tại Điều 28, Điều 35, Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã tiến hành giải quyết vụ án theo đúng trình tự thủ tục do pháp luật quy định. Nguyên đơn thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 71 và Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn không thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 72 và Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự. Về việc giải quyết vụ án: Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho chị Đỗ Thị Hải H được ly hôn anh Chu Văn H1; đề nghị giao con chung tên Chu Đỗ Cẩm T1 cho chị Đỗ Thị Hải H trực tiếp nuôi dưỡng, giao hai con chung tên Chu Đỗ Hoài N và Chu Đỗ Thanh T cho anh Chu Văn H1 trực tiếp nuôi dưỡng. Người không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Nguyên đơn nộp án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về sự vắng mặt của đương sự Bị đơn là anh Chu Văn H1 đã được Tòa án triệu tập đến phiên tòa lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.
[2] Về yêu cầu của chị Đỗ Thị Hải H xin ly hôn với anh Chu Văn H1 Chị Đỗ Thị Hải H và anh Chu Văn H1 kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đủ điều kiện kết hôn và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng nên hôn nhân giữa chị H và anh H1 là hôn nhân hợp pháp. Do mâu thuẫn vợ chồng nên chị H làm đơn xin ly hôn với anh H1. Tài liệu xác minh tại gia đình và tại địa phương thống nhất thể hiện: Cuộc sống chung vợ chồng giữa chị Đỗ Thị Hải H và anh Chu Văn H1 đã phát sinh mâu thuẫn từ 2020 và đến cuối năm 2021 thì mâu thuẫn trở nên trầm trọng. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng trong sinh hoạt, vợ chồng không còn tin tưởng nhau về mặt tình cảm dẫn đến cãi vã, xúc phạm nhau. Chị H về nhà bố mẹ đẻ ở, vợ chồng ly thân từ đó cho đến nay. Gia đình hai bên đều đã động viên khuyên giải nhưng không có kết quả. Xét thấy, mâu thuẫn giữa chị H và anh H1 là có tồn tại, giữa vợ và chồng không còn dành cho nhau sự quan tâm, yêu thương và chia sẻ cùng nhau. Tại phiên tòa, chị H giữ nguyên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Chu Văn H1. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhiều lần triệu tập và tiến hành hòa giải nhưng anh H1 vắng mặt không có lý do, cho thấy anh H1 không quan tâm đến việc hàn gắn quan hệ vợ chồng.
Từ những căn cứ nêu trên cho thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được và đời sống chung không thể tiếp tục kéo dài. Do vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Đỗ Thị Hải H xin ly hôn anh Chu Văn H1.
[3] Về người trực tiếp nuôi con khi ly hôn và nghĩa vụ cấp dưỡng cho con Chị Đỗ Thị Hải H và anh Chu Văn H1 có 03 con chung tên Chu Đỗ Hoài N, sinh ngày 12 tháng 7 năm 2011, Chu Đỗ Thanh T, sinh ngày 19 tháng 6 năm 2014 và Chu Đỗ Cẩm T1, sinh ngày 23 tháng 6 năm 2021. Khi ly hôn, chị H đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Chu Đỗ Cẩm T1 và để anh H1 được trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Chu Đỗ Thanh T và Chu Đỗ Hoài N. Hội đồng xét xử xem xét các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và nhận định về đề nghị nuôi con của chị H như sau: Kể từ khi vợ chồng ly thân, hai con chung tên Chu Đỗ Hoài N và Chu Đỗ Thanh T ở cùng với anh H1; con chung tên Chu Đỗ Cẩm T1 ở cùng với chị H. Việc ăn ở và học tập của các con đều ổn định, được chăm sóc phát triển bình thường, các con chung tên Nam và Thảo có thể hiện được ở cùng với anh H1. Chị Đỗ Thị Hải H và anh Chu Văn H1 đều là lao động tự do, có thu nhập để thực hiện việc nuôi con và đều đang ở cùng với bố mẹ đẻ nên có sự hỗ trợ từ phía gia đình trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng các con.
Căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của con, điều kiện thực hiện việc nuôi con của đương sự và quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử xét giao cho anh Chu Văn H1 trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung tên Chu Đỗ Hoài N và Chu Đỗ Thanh T; giao cho chị Đỗ Thị Hải H trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Chu Đỗ Cẩm T1 là phù hợp với quy định của Luật Hôn nhân và gia đình.
Cấp dưỡng nuôi con là nghĩa vụ của người không trực tiếp nuôi con. Chị Đỗ Thị Hải H không đề nghị Tòa án giải quyết về việc cấp dưỡng nuôi con; anh Chu Văn H1 không có ý kiến về việc cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[4] Về tài sản chung, chị Đỗ Thị Hải H khai vợ chồng không có tài sản chung và không đề nghị Tòa án giải quyết. Mặt khác không có lời khai của bị đơn là anh Chu Văn H1 về tài sản chung. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết về tài sản chung trong vụ án này.
[5] Về án phí, chị Đỗ Thị Hải H phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Đỗ Thị Hải H:
1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Đỗ Thị Hải H được ly hôn anh Chu Văn H1.
2. Về con chung: Giao cho chị Đỗ Thị Hải H trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Chu Đỗ Cẩm T1, sinh ngày 23 tháng 6 năm 2021; giao cho anh Chu Văn H1 trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung là Chu Đỗ Hoài N, sinh ngày 12 tháng 7 năm 2011và Chu Đỗ Thanh T, sinh ngày 19 tháng 6 năm 2014 cho đến khi các con chung thành niên và có khả năng lao động, trừ trường hợp có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
Về nghĩa vụ cấp dưỡng cho con sau khi ly hôn: Các đương sự tạm thời không yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cấp dưỡng cho con.
3. Về án phí: Chị Đỗ Thị Hải H phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm. Đối trừ với số tiền tạm ứng án phí đã nộp (ghi tại biên lai thu số 0007946 ngày 11/5/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện T), chị Đỗ Thị Hài Hà đã nộp đủ án phí.
4. Về quyền kháng cáo: Chị Đỗ Thị Hải H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; anh Chu Văn H1 có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7a và Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014.
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 132/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 132/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 27/07/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về